✨Rồng Komodo

Rồng Komodo

Rồng Komodo (Varanus komodoensis) là một loài thằn lằn lớn được tìm thấy trên các đảo của Indonesia, gồm Komodo, Rinca, Flores và Gili Motang. Là thành viên của Chi Kỳ đà thuộc họ Varanidae, và là loài thằn lằn lớn nhất còn tồn tại cho đến bây giờ, chiều dài tối đa và nặng khoảng .

Do kích thước của chúng, những con thằn lằn này thống trị hệ sinh thái trên hòn đảo mà chúng đang sinh sống. Rồng Komodo săn và phục kích con mồi bao gồm động vật không xương sống, chim, và động vật có vú. Người ta khẳng định rằng chúng có nọc độc; có hai tuyến ở hàm dưới tiết ra một số protein độc. Ý nghĩa sinh học của các protein này đang còn là chủ đề gây tranh cãi, nhưng các tuyến đã được chứng minh là tiết ra chất chống đông máu. Tập tục săn mồi theo nhóm của rồng Komodo rất đặc biệt trong thế giới bò sát. Chế độ ăn của rồng Komodo chủ yếu là nai nhỏ Indonesia, mặc dù chúng cũng ăn một lượng đáng kể xác thối. Rồng Komodo thỉnh thoảng tấn công con người.

Mùa giao phối bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8, đẻ trứng vào tháng 9; tối đa 20 trứng một lứa, chúng thường đẻ trong tổ gà rừng bị bỏ hoang hoặc trong hang tự đào. Trứng được ấp từ bảy đến tám tháng, nở vào tháng tư, khi côn trùng phát triển nhiều nhất. Rồng Komodo non dễ bị tổn thương và do đó thường trú ngụ trên cây, an toàn trước những kẻ săn mồi và những con trưởng thành ăn thịt đồng loại. Chúng mất 8 đến 9 năm để trưởng thành và ước tính có thể sống đến 30 năm.

Rồng Komodo được các nhà khoa học phương Tây ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1910. Kích thước to lớn khiến chúng thường được nuôi trong vườn thú. Trong tự nhiên, phạm vi phân bố của chúng bị thu hẹp do các hoạt động của con người, và chúng được liệt kê vào danh sách loài sắp nguy cấp bởi IUCN. Chúng được bảo vệ theo pháp luật Indonesia, và Vườn quốc gia Komodo được thành lập vào năm 1980 để hỗ trợ và nỗ lực bảo vệ.

Lịch sử phân loại

thumb|Sọ

Rồng Komodo lần đầu tiên được ghi nhận bởi người châu Âu vào năm 1910, khi tin đồn về một con "cá sấu đất" truyền đến tai Trung úy van Steyn van Hensbroek của chính quyền thuộc địa Hà Lan. Joan Beauchamp Procter đã tiến hành quan sát chúng trong điều kiện nuôi nhốt và cô đã mô tả hành vi của chúng tại cuộc họp khoa học của Hiệp hội động vật học London vào năm 1928.

Rồng Komodo là nhân tố thúc đẩy chuyến thám hiểm đảo Komodo của W. Douglas Burden vào năm 1926. Sau khi trở về với 12 mẫu vật được bảo quản và hai mẫu vật còn sống, chuyến thám hiểm này đã tạo nguồn cảm hứng cho bộ phim năm 1933 King Kong. Burden cũng là người đặt ra cái tên chung là "rồng Komodo". Ba mẫu vật của ông đã được nhồi bông và hiện vẫn được trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ.

Chính quyền Hà Lan, nhận thấy số lượng cá thể hạn chế trong tự nhiên, đã sớm đặt hoạt động săn bắn thể thao ngoài vòng pháp luật và hạn chế rất nhiều số lượng cá thể được lấy để nghiên cứu khoa học. Việc thu thập và cuộc thám hiểm bị dừng lại khi xảy ra Chiến tranh thế giới thứ 2, không liên tục cho đến những năm 1950 và 1960, khi các nghiên cứu quan sát hành vi kiếm ăn, sinh sản và nhiệt độ cơ thể của rồng Komodo. Vào khoảng thời gian này, một cuộc thám hiểm dài hạn đã được lên kế hoạch. Chuyến thám hiểm này được giao cho gia đình Auffenberg, họ đã ở trên đảo Komodo trong 11 tháng vào năm 1969. Trong thời gian ở đây, Walter Auffenberg và trợ lý của ông là Putra Sastrawan đã phát hiện và gắn thẻ hơn 50 rồng Komodo.

Nghiên cứu từ chuyến thám hiểm của Auffenberg có ảnh hưởng to lớn trong việc nuôi rồng Komodo trong điều kiện nuôi nhốt. Nghiên cứu sau đó của gia đình Auffenberg đã làm sáng tỏ hơn về bản chất của rồng Komodo, với các nhà sinh vật học như Claudio Ciofi tiếp tục nghiên cứu về sinh vật này. mặc dù cái tên này không phổ biến. Đối với người bản xứ đảo Komodo, nó được gọi là ora, buaya darat (cá sấu đất), hoặc biawak raksasa (kỳ đà khổng lồ).

Lịch sử tiến hóa

Quá trình phát triển và tiến hóa của rồng Komodo bắt đầu với chi Varanus, có nguồn gốc từ Châu Á khoảng 40 triệu năm trước và di cư đến Úc, nơi nó tiến hóa thành dạng khổng lồ (lớn nhất là loài Megalania đã tuyệt chủng gần đây), nhờ việc không bị cạnh tranh bởi thú ăn thịt có nhau thai. Khoảng 15 triệu năm trước, một vụ va chạm giữa lục địa Úc và Đông Nam Á khiến những con kỳ đà lớn hơn này di chuyển trở lại khu vực ngày nay là quần đảo Indonesia, mở rộng phạm vi của chúng tới tận phía đông đảo Timor.

Rồng Komodo được cho là đã khác biệt với tổ tiên ở Úc của nó khoảng 4 triệu năm về trước. Tuy nhiên, bằng chứng hóa thạch gần đây từ Queensland cho thấy rồng Komodo thực sự tiến hóa ở Úc, trước khi về Indonesia.

Mực nước biển hạ thấp đáng kể trong thời kỳ băng hà cuối cùng đã lộ ra những dải thềm lục địa rộng lớn mà rồng Komodo chiếm giữ, nhưng dần trở nên cô lập trong phạm vi đảo hiện tại của chúng khi mực nước biển dâng cao trở lại sau đó.

Phân tích di truyền DNA ti thể cho thấy rồng Komodo là họ hàng gần nhất (nhóm chị em) của Varanus varius, tổ tiên của chúng đã phân nhánh thành nhiều loài, trong đó có kỳ đà cá sấu (Varanus salvadorii) vùng New Guinea.

Một nghiên cứu năm 2021 đã chứng minh rằng trong thế Miocen, rồng Komodo đã lai với tổ tiên của loài kỳ đà cát của Úc. Do đó, cung cấp thêm bằng chứng cho thấy rồng Komodo đã từng sinh sống ở Úc.

Mô tả

left|thumb|Mẫu trong hồ sơ Trong hoang dã, rồng Komodo trưởng thành thường nặng khoảng , mặc dù những cá thể nuôi nhốt thường nặng hơn.< Cá thể hoang dã lớn nhất được tìm thấy dài và nặng tới , bao gồm cả thức ăn chưa tiêu hóa hết.

thumb|right|Chụp gần da Rồng Komodo có đuôi dài bằng phần thân, răng cưa dài khoảng . Nước bọt của nó thường xuyên có máu, bởi vì răng của chúng hầu như hoàn toàn được bao phủ bởi mô nướu do đó thường bị rách khi ăn. Điều này tạo môi trường sống cho vi khuẩn sống trong miệng của nó. Nó cũng có một cái lưỡi dài, vàng hình chạc hai.

Giác quan

Như các loài Varanidae khác, rồng Komodo chỉ có một xương tai đơn là xương bàn đạp, chuyển rung động từ màng tai tới ốc tai. Chúng bị hạn chế với âm thanh có tần số từ 400 tới 2,000 hertz, trong khi con người là từ 20 tới 20,000 hertz. Trước đây các nhà nghiên cứu cho rằng chúng bị điếc khi họ thấy chúng không phản ứng với tiếng nói hay hét. Một nhân viên khiếm thị của Sở thú London, Joan Proctor, có thể gọi rồng Komodo ra để cho ăn bằng tiếng nói, điều này đã gây tranh cãi.

Rồng Komodo có thể nhìn từ khoảng cách , nhưng bởi màng lưới chỉ có tế bào hình nón, nó được cho là có tầm nhìn đêm không tốt. Rồng Komodo nhìn được màu, nhưng có khi vật bất động thì chúng có khả năng phân biệt khá tệ.

Rồng Komodo dùng lưỡi để thử không khí|thumb|left Rồng Komodo dùng lưỡi để dò tìm, nếm không khí, và ngửi, như các loài bò sát khác, chúng thường dùng cơ quan Jacobson hơn dùng lỗ mũi. Với sự trợ giúp của không khí và thói quen đung đưa đầu từ bên này sang bên kia, rồng Komodo có thể đánh hơi được một cái xác thối cách xa từ .

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Rồng Komodo** (_Varanus komodoensis_) là một loài thằn lằn lớn được tìm thấy trên các đảo của Indonesia, gồm Komodo, Rinca, Flores và Gili Motang. Là thành viên của Chi Kỳ đà thuộc họ Varanidae,
[ COMBO 5 ] Kẹp Càng Cua ( Gấp Tóc ) 5 Răng Trong Suốt In Hình RỒNG KOMODO Đáng Yêu -Nhựa Nica Không Gãy ( Giao Ngẫu Nhiên ) PKHN0291AOHaLa – Phụ Kiện Thời
[ COMBO 10 ] Kẹp Càng Cua ( Gấp Tóc ) 5 Răng Trong Suốt In Hình RỒNG KOMODO Đáng Yêu -Nhựa Nica Không Gãy ( Giao Ngẫu Nhiên ) PKHN0291BOHaLa – Phụ Kiện Thời
[ LOẠI 1 ] 1 Kẹp Càng Cua ( Gấp Tóc ) 5 Răng Trong Suốt In Hình RỒNG KOMODO Đáng Yêu -Nhựa Nica Không Gãy ( Giao Ngẫu Nhiên ) PKHN0291OHaLa – Phụ Kiện
**Rồng** (chữ Nôm: 𧍰, 𧏵, hay 蠬) hay **Long** (chữ Hán: 龍) là sinh vật thần thoại khổng lồ sở hữu phép thuật xuất hiện trong văn hóa dân gian ở nhiều nơi trên thế
**Komodo** là một trong số khoảng 17.508 đảo của Indonesia. Đảo này có diện tích khoảng 390 km² và trên 2.000 người sinh sống. Cư dân trên đảo là hậu duệ của những người bị kết
**Rồng rắn quyết tử** hay **Rồng Komodo đại chiến rắn hổ chúa** (tựa gốc tiếng Anh: **Komodo vs. Cobra**, gọi tắt là **KVC**) là bộ phim kinh dị, viễn tưởng và phiêu lưu năm 2005
**Komodo** có thể là: * Komodo, một hòn đảo ở Indonesia. * Tiếng Komodo, tiếng địa phương ở đảo Komodo. * Rồng Komodo, loài bò sát bản địa lớn ở Indonesia. * Vườn quốc gia
**Vườn quốc gia Komodo** là một vườn quốc gia của Indonesia nằm ở quần đảo Sunda nhỏ cạnh biên giới giữa Đông Nusa Tenggara và Tây Nusa Tenggara. Vườn quốc gia bao gồm ba đảo
nhỏ|phải|Vị trí đảo Timor **Timor** là một hòn đảo tại phần ngoài cùng phía nam của Đông Nam Á hải đảo, nằm ở phía bắc biển Timor. Nó được chia thành 2 phần là Đông
phải|Hai con lợn rừng **Lợn rừng** hay **heo rừng** (_Sus scrofa_) còn được gọi là **lợn lòi** là một loài lợn sinh sống ở lục địa Á-Âu, Bắc Phi, và quần đảo Sunda Lớn. Con
nhỏ|phải|Đảo Rinca. **Rinca** hay **Rincah** là một đảo nhỏ nằm gần đảo Pudar cùng đảo Komodo ở phía tây, đảo Flores ở phía đông cùng một loạt các đảo nhỏ khác ở phía bắc như
nhỏ|phải|[[Hổ là loài vật ăn thịt người nhiều nhất trong họ nhà mèo.]] **Động vật ăn thịt người** dùng để chỉ về những động vật săn bắt và ăn thịt con người như là một
Vị trí đảo Flores **Flores** là một trong các đảo thuộc nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ), một vòng cung đảo trải dài từ phía đông đảo
phải|[[Voi châu Phi là động vật lớn nhất trên cạn]] **Động vật lớn** hay **động vật khổng lồ** (tiếng Anh: megafauna) là những loài động vật có kích thước to lớn hay thậm chí là
**Kỳ đà** (Danh pháp khoa học: _Varanus_) là một chi thằn lằn năm trong Họ Kỳ đà đôi khi còn được gọi sai là _cự đà_, một loài bò sát Họ Cự đà. Đây là
**Đế quốc Hà Lan** () bao gồm các vùng lãnh thổ ở nước ngoài thuộc tầm kiểm soát của Hà Lan từ thế kỷ 17 đến những năm 1950. Người Hà Lan đã theo sau
**_Tyrannosaurus_** (, có nghĩa là _thằn lằn bạo chúa_, được lấy từ tiếng Hy Lạp "_tyrannos_" (τύραννος) nghĩa là "_bạo chúa_", và "_sauros_" (σαῦρος) nghĩa là "_thằn lằn_"), còn được gọi là **Khủng long bạo
thumb|right|Phụ nữ trong độ tuổi sinh sản và trẻ em dưới 2 tuổi cần cải thiện tình trạng dinh dưỡng bằng cách ăn thực phẩm tốt cho sức khỏe Trong dinh dưỡng, **chế độ ăn
thế=Cá kình, Orca|nhỏ|250x250px|**Cá voi sát thủ**, vật dữ đầu bảng trong môi trường biển **Động vật ăn thịt đầu bảng** hay **động vật ăn thịt đầu chuỗi**, còn được gọi là **động vật đầu bảng**,
**Vườn thú cũ ở Poznań** (tiếng Ba Lan: _Stare Zoo w Poznaniu_) là một trong những vườn bách thú lâu đời nhất ở Ba Lan, nằm ở thành phố Poznań, Voivodeship Greater Ba Lan. Nó
**Đại hội thể thao Đông Nam Á lần thứ 26** được tổ chức chính thức ở thành phố Palembang và thủ đô Jakarta, Indonesia vào năm 2011. Đây là lần thứ tư Indonesia đăng cai
**Họ Kỳ đà** (danh pháp khoa học: **_Varanidae_**) bao gồm các loài thằn lằn ăn thịt lớn nhất bao gồm cả rồng Komodo, kỳ đà Salvadori. Các loài còn sinh tồn thuộc chi Kỳ đà,
**Đông Nusa Tenggara** (tiếng Indonesia: **Nusa Tenggara Timur**) là một tỉnh của Indonesia ở phần phía Đông của quần đảo Nusa Tenggara. Tỉnh lỵ của nó là thành phố Kupang trên đảo Timor. Phần lãnh
nhỏ|phải|[[Hươu nai, con mồi phổ biến của các loài hổ, báo, sói, gấu...]] **Con mồi** hay **thú mồi** là một thuật ngữ sinh thái học chỉ về một động vật là đối tượng bị săn
**Majungasaurus** (phát âm tiếng Anh: ; nghĩa đen là "thằn lằn Mahajanga") là một chi khủng long chân thú Abelisauridae từng sinh sống ở Madagascar 70-66 triệu năm trước đây, vào cuối kỷ Creta. Chi
**Indonesia**, tên gọi chính thức là **Cộng hòa Indonesia** (tiếng Indonesia: _Republik Indonesia_), thường được gọi ngắn là **Indo**, là một đảo quốc liên lục địa, nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương.
nhỏ|phải|[[Hươu đùi vằn trong một thời gian dài được cho là sinh vật kỳ bí, sau này đã được khám phá]] **Sinh vật bí ẩn** hay **sinh vật kỳ bí** (tiếng Anh: **cryptid** bắt nguồn
nhỏ|phải|Những mô hình khủng long đầu tiên là [[Iguanodon và Mantellodon được đặt ở Crystal Palace, Luân Đôn vốn có từ thời Victoria, là những hình tượng sớm nhất về khủng long]] nhỏ|phải|Tượng khủng long
**_Siêu đại chiến_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Pacific Rim_**; tên khác: **_Vành đai Thái Bình Dương_**) là một bộ phim điện ảnh đề tài quái vật và khoa học viễn tưởng của Mỹ năm 2013
Những **sinh vật lớn nhất** trên Trái Đất được xác định theo những tiêu chí khác nhau: khối lượng, thể tích, diện tích, chiều dài, chiều cao hoặc thậm chí là kích thước của bộ
nhỏ|Động vật có nọc độc **Nọc độc** ( hoặc ) là một loại độc tố do động vật tạo ra và xâm nhập vào cơ thể của cá thể khác qua vết cắn, vết chích,
**Bộ Có vảy** hay **bò sát có vảy** (danh pháp khoa học: **_Squamata_**) là một bộ bò sát lớn nhất hiện nay, bao gồm các loài thằn lằn và rắn. Các loài của bộ này
**Công viên Safari Dubai** hay **Khu dã sinh Dubai** () là khu dã sinh thân thiện với môi trường ở Dubai, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Nguồn năng lượng chính của công
**Nuôi động vật hoang dã** (_Wildlife farming_) hay còn gọi gọn là **nuôi thú rừng** là hoạt động nuôi nhốt động vật với đối tượng là các loài động vật hoang dã chưa thuần hóa
**Kỳ đà khổng lồ** hay còn gọi là **Nhông Úc** (danh pháp hai phần: **_Varanus giganteus_**) là một loài thằn lằn trong họ Varanidae. Loài này được Gray mô tả khoa học đầu tiên năm
**Ong bắp cày Gadura** (Danh pháp khoa học:**Megalara garuda**) là một loài ong bắp cày mới vừa được tìm thấy tại dãy núi Mekongga phía đông nam đảo Sulawesi của Indonesia vào năm 2011 do
**_Varanus salvadorii_** là một loài thằn lằn trong họ Varanidae. Nó là loài kỳ đà lớn nhất New Guinea, và được xem là một trong những loài thằn lằn dài nhất thế giới, có thể
nhỏ|phải|Xác con [[heo bệnh chết]] **Xác thối** hay **xác động vật chết** chỉ về phần xác thịt đang phân hủy của những động vật đã bị chết. Thuật ngữ này trong tiếng Anh là carrion
**Megalania** (_Megalania prisca_ hay _Varanus priscus_) là một loài kỳ đà lớn tuyệt chủng. Chúng là một phần của các động vật lớn sống ở miền nam Úc vào thế Pleistocene. Chúng biến mất vào
nhỏ|Xác định giới tính ZW ở chim (ví dụ như với gà) **Hệ thống xác định giới tính ZW** là **hệ thống** nhiễm sắc thể xác định giới tính của con non ở một số
**Bảy kỳ quan thiên nhiên của thế giới** (tiếng Anh: New 7 Wonders of Nature) là một cuộc bình chọn do công ty tư nhân New Open World (NOW) Corporation, đặt trụ sở tại Thụy
**_Luật rừng_** (Tiếng Anh: Law of the Jungle, ) là một chương trình truyền hình thực tế-tài liệu của Hàn Quốc trên kênh SBS. Nó được phát sóng lần đầu tiên vào 21 tháng 10
**Jakarta** (phiên âm tiếng Việt: **Gia-các-ta**, ), tên đầy đủ là **Tỉnh Đặc khu Thủ đô Jakarta** (tiếng Indonesia: _Propinsi Daerah Khusus Ibukota Jakarta_, viết tắt là _Propinsi DKI Jakarta_ hoặc _DKI Jakarta_), là thủ
**_Acanthurus leucosternon_** là một loài cá biển thuộc chi _Acanthurus_ trong họ Cá đuôi gai. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1833. ## Từ nguyên Từ định danh của loài
**Jodie Anna Burrage** (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1999) là một nữ vận động viên quần vợt người Anh Quốc. Cô có thứ hạng cao nhất ở nội dung đơn trên bảng xếp hạng
**_Eviota algida_**, tên thông thường là **upwelling dwarfgoby**, là một loài cá biển thuộc chi _Eviota_ trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2014. ## Từ nguyên
**Eo biển Sumba** (tiếng Indonesia: Selat Sumba) là một eo biển tại Indonesia. Eo biển này chia tách đảo Sumba ở phía nam với các đảo lớn như Flores và Sumbawa, cũng như các đảo
**Đảo Alor** là đảo lớn nhất trong quần đảo Alor, nằm ở rìa phía đông của nhóm các đảo gọi chung là quần đảo Nusa Tenggara (quần đảo Sunda Nhỏ) chạy dọc theo miền nam
**Biển Flores** là một vùng nước, bao phủ diện tích khoảng 240.000 km² (93.000 dặm vuông) ở miền tây Nam Thái Bình Dương.. Về mặt ngữ nghĩa kỹ thuật, nó là một phần của Thái Bình