✨Robert II của Scotland

Robert II của Scotland

Robert II (2 tháng 3, 1316 – 19 tháng 4, 1390) cai trị với vương hiệu Vua của người Scots từ 1371 cho đến khi qua đời, là vị quân vương đầu tiên của Nhà Stewart. Ông là con trai của Walter Stewart, High Steward thứ sáu của Scotland và Marjorie Bruce, con gái của Robert the Bruce với người vợ đầu tiên của Bruce là Isabella xứ Mar.

Edward Bruce, em trai của Robert the Bruce, được tấn phong thái đệ kế thừa ngôi vua nhưng ông ta chết mà không có con cái ngày 3 tháng 12 năm 1318 tại trận Dundalk thuộc Ireland. Marjorie qua đời trước đó ít lâu vì tai nạn xe ngựa – có thể là vào năm 1317. Nghị viện chọn người con trai trưởng của bà, Robert Stewart, làm người thừa kế, nhưng dự luật bị phá vỡ bởi vào ngày 5 tháng 3 năm 1324 cùng sự chào đời của một hoàng tử, David, con vua Robert với người vợ thứ hai, Elizabeth de Burgh. Robert Stewart kế thừa tước vị High Steward của Scotland sau cái chết của phụ thân ngày 9 tháng 4 năm 1326, và Nghị viện họp vào tháng 7 năm 1326 quyết định rằng cậu bé Steward là người kế vị nếu hoàng tử David chết mà không có người thừa kế. Năm 1329, Vua Robert I băng hà và cậu bé David sáu tuổi kế vị ngai vàng cùng Sir Thomas Randolph, Bá tước Moray được bổ nhiệm làm Hộ quốc công của Scotland.

Edward Balliol, con của Vua John Balliol, nhận được sự ủng hộ từ các quý tộc Anh và Scotland có thù oán với Robert I, đã xâm lăng Scotland và đánh bại quân đội nhà Bruce một trận lớn ngày 11 tháng 8 năm 1332 tại Dupplin Moor và Halidon Hill ngày 19 tháng 7 năm 1333. Robert bại trận ở Halidon, nơi mà chú và cũng là người giám hộ cũ của ông, Sir James Stewart, bị giết hại. Sau trận này, đất đai của Robert ở miền tây bị Balliol giao cho cận thần ủng hộ mình là David Strathbogie, với tước vị Bá tước Atholl. Robert lánh nạn ở trong pháo đài của Lâu đài Dumbarton ở cửa sông Clyde và hợp quân với chú của ông, Vua David. Tháng 5 năm 1334 David bỏ trốn sang Pháp, để lại Robert và John Randolph, Bá tước Moray thứ 3 làm Hộ quốc công bảo vệ đất nước. Robert đã thành công khi chiếm lại những lãnh địa cũ sau khi Randolph bị quân Anh bắt vào tháng 7 năm 1335, nhưng lại một lần nữa ông bị tấn công bởi quân của Balliol và Vua Edward III của Anh. Điều này dẫn tới việc Robert xưng thần với Balliol và quốc vương Anh và có thể giải thích vì sao ông lại được phong làm Hộ quốc công vào tháng 9 năm 1335. Chức Hộ quốc được chuyển giao cho Sir Andrew Murray xứ Bothwell nhưng sau khi ông ta chết vào năm 1338 Robert một lần nữa trở lại nắm quyền cho đến khi Vua David trở về từ nước Pháp vào tháng 6 năm 1341. Robert hộ tống David trong trận chiến ở Neville's Cross ngày 17 tháng 10 năm 1346 nhưng ông và Patrick Dunbar, Bá tước xứ March trốn thoát trong khi David bị bắt làm tù binh. Tháng 10 năm 1357, nhà vua được phóng thích sau hơn 10 năm bị giam cầm khi Nghị viện đồng ý trả 100,000 marks tiền chuộc.

Robert kết hôn với Elizabeth Mure khoảng năm 1348, sinh được 4 trai 2 gái. Cuộc hôn nhân tiếp theo của ông với Euphemia de Ross năm 1355 có 2 trai 2 gái và do đó gây ra tranh chấp quyền kế vị sau này. Robert tham gia vào cuộc nổi dậy chống lại David năm 1363 nhưng lại thần phục khi biết điều này sẽ đe dọa đến quyền kế thừa ngôi vua của mình. Năm 1364, David đưa ra đề xuất lên quốc hội theo đó sẽ hủy bỏ hoàn toàn số tiền chuộc còn thiếu vua Anh nếu một thành viên gia tộc Plantagenet trở thành người thừa kế ngai vàng Scotland nếu nhà vua chết không con cái. Đề xuất bị hủy bỏ và Robert kế thừa ngôi vua ở tuổi 55 sau cái chết đột ngột của David năm 1371. Người Anh vẫn kiểm soát một vùng đất rộng lớn ở Lothians và vùng biên giới nên Vua Robert cho phép các bá tước miền nam có thể tự do hành động để chống lại quân Anh giành lại lãnh thổ của mình, ông ngừng giao thương với Anh và chuẩn bị kí hiệp ước với Pháp. Trước năm 1384, người the Scots đã giành lại hầu hết đất đai bị mất, nhưng sau khi cuộc đàm phán Anh - Pháp diễn ra, Robert không muốn đẩy Scotland và cuộc chiến tranh nữa và có ý định đàm phán về một hiệp ước hòa bình. Chính sách hòa bình của Robert trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc đảo chính năm 1384 khiến ông bị mất quyền lực, đầu tiên là vào tay con trai trưởng của ông, John, Bá tước Carrick, về sau là Vua Robert III, và đến năm 1388 rơi vào tay em trai của John, Robert, Bá tước xứ Fife, về sau là Quận công Albany thứ 1. Robert II qua đời tại Lâu đài Dundonald năm 1390 và được an táng tại Scone Abbey.

Người thừa kế

Robert Stewart, chào đời năm 1316, là con duy nhất của Walter Stewart, High Steward của Scotland và con gái Vua Robert I là Marjorie Bruce, bà mất có thể là vào năm 1317 do tai nạn xe ngựa. Ông được nuôi dạy bởi một quý tộc Gaelic ở lãnh địa của nhà Stewart thuộc Bute, Clydeside, và ở Renfrew. Edward bị giết tại Trận Faughart, gần Dundalk ngày 14 tháng 10 năm 1318, buộc Nghị viện phải vội vàng quyết định để đến tháng 10 thì công bố dự luật quy định con trai của Marjorie, Robert, là người thừa kế nếu như nhà vua chết mà không có con nối. Sự chào đời của hoàng tử David, vào ngày 5 tháng 3 năm 1324 đã phế đi quyền kế vị của Robert Stewart, nhưng Nghị viện họp một lần nữa tại Cambuskenneth vào tháng 7 năm 1326 khôi phục quyền kế vị cho ông trong trường hợp David chết mà không có người thừa kế.

High Steward của Scotland

Chiến tranh giành độc lập

thumb|right|Lâu đài Dumbarton Castle thuộc Dumbarton Rock nơi Robert Stewart và Vua David ẩn náu vào năm [[1333.]]

Chiến tranh giành độc lập thứ nhất bắt đầu dưới thời Vua John Balliol. Triều đại ngắn ngủi của ông ta bị bao phủ bởi quyền chúa tể mà Edward I nước Anh áp đặt lên Scotland. Các lãnh chúa Scotland đi đến quyết định rằng chỉ có chiến tranh mới có thể thoát khỏi sự khống chế của nhà vua Anh đối với vương quyền của nhà Balliol và họ đi đến một hiệp ước với Pháp quốc vào tháng 10 năm 1295. Người Scots tiến quân vào nước Anh vào tháng 3 năm 1296 - hành động này cùng với hiệp ước kí với Pháp đã khiến vua Anh tức giận và tiến hành xâm lược Scotland, bắt đầu từ Berwick ngày 30 tháng 3, sau đó quân Anh đánh bại quân Scotland ở trận Dunbar ngày 27 tháng 4. John Balliol đầu hàng Edward và bị truất ngôi trước khi trở thành tù nhân trong tòa tháp London. Mặc dù vậy, những cuộc nổi dậy do William Wallace và Andrew Moray lãnh đạo vẫn dùng danh nghĩa của Vua John Balliol. và cậu bé mồ côi 11 tuổi Robert lên thay và được sự bảo hộ của người chú, Sir James Stewart xứ Durrisdeer, Việc David lên ngôi dẫn đến chiến tranh giành độc lập lần thứ 2 đe dọa đến vị trí thừa kế của Robert. Năm 1332, Edward Balliol, con trai của John Balliol, đem quân tuyên chiến với vương quyền của nhà Bruce với sự hỗ trợ ngầm từ Vua Edward III của Anh và những 'người bị tước sản nghiệp'. Quân của Edward Balliol đánh bại quân đội ủng hộ Bruce hai trận lớn ở Dupplin Moor ngày 11 tháng 8 năm 1332 và Halidon Hill ngày 19 tháng 7 năm 1333, chàng trai Robert 17 tuổi đã tham gia vào hai trận chiến này.

thumb|Lâu đài Dairsie nơi mà Nghị viện được triệu tập năm [[1335.]]

Tháng 5 năm 1334, tình hình trở nên tồi tệ đối với nhà Bruce và David II phải lánh nạn sang Pháp. Strathbogie một lần nữa đổi phe và xưng thần với nhà vua Anh vào tháng 8 nên được phong làm Người bảo hộ của Scotland. Dường như Strathbogie cũng thuyết phục Robert xưng thần với Edward và Balliol—Sir Thomas Gray, trong tác phẩm Scalacronica của mình ghi nhận rằng ông đã thực sự hành động như vậy - điều này có thể giải thích vì sao ông được phong chức Hộ quốc công vào thời điểm đó. Cuộc kháng chiến của phe Bruce chống lại Balliol dường như thất bại vào năm 1335 nhưng cục diện đã xoay chuyển với sự xuất hiện của Sir Andrew Murray xứ Bothwell trong Trận Culblean. Murray bị bắt năm 1332, tự chuộc thân năm 1334, và ngay lập tức dẫn quân về phía bắc bao vây Lâu đài Dundarg thuộc Buchan đang nằm dưới sự kiểm soát của Sir Henry de Beaumont, và lâu đài thất thủ ngày 23 tháng 12 năm 1334. Murray được bổ nhiệm làm Hộ quốc công tại Dunfermline suốt giai đoạn 1335 - 1336 trong lúc đang bao vây Lâu đài Cupar ở Fife. Ông qua đời trong tòa lâu đài Avoch năm 1338 và Robert lại nắm quyền Hộ quốc. Chiến dịch của Murray đặt dấu chấm hết cho mọi hi vọng kiểm soát hoàn toàn miền Nam Scotland của Edward III và thất bại của Edward trong cuộc vây hãm Dunbar Castle kéo dài 6 tháng đã chứng minh điều này. Balliol mất đi rất nhiều người ủng hộ khi họ ngả sang phe Bruce và lực lượng quân Anh gặp thất bại trước quân Scots—Cupar vào mùa xuân và mùa hạ năm 1339, Perth được giành lại bởi Robert cũng trong năm 1339 và Edinburgh được William, Bá tước Douglas chiếm được vào tháng 4 năm 1341.

John Randolph, được người Anh phóng thích sau cuộc trao đổi tù nhân năm 1341, đến yết kiến David II ở Normandy trước khi trở về Scotland. Và Randolph trở thành cận thần của nhà vua, David II không tin Robert Stewart vì ông nắm quá nhiều quyền lực với danh nghĩa người thừa kế và Hộ quốc công của Scotland. Đầu tháng 6 năm 1341, vương quốc đã đủ ổn định cho phép nhà vua có thể trở về trong khi các quý tộc nhà Bruce đã cải thiện đáng kể quyền lực của họ. Ngày 17 tháng 10 năm 1346, Robert hộ tống David tham chiến tại Neville's Cross, nơi các quý tộc Scotland bao gồm cả Randolph, tử trận—David II bị thương và bị bắt làm tù binh trong khi Robert và Patrick, Bá tước March trốn thoát khỏi chiến trường. Năm 1347 ông có một bước tiến quan trọng khi chính thức hợp thức óa bốn đứa con trai, John, Bá tước Carrick (tương lai là vua Robert III), Walter, Huân tước Fife (mất 1362), Robert (tương lai là Quận công xứ Albany) và Alexander, Huân tước Badenoch (tương lai là Bá tước Buchan), và sáu con gái bằng việc thỉnh cầu Giáo hoàng Clement VI cho phép ông kết hôn cận huyết với Elizabeth Mure.

Mặc dù là tù binh của người Anh, David vẫn giữ được ảnh hưởng tại Scotland và Robert bị Nghị viện tước bỏ cương vị Hộ quốc công, thay vào đó là các bá tước xứ Mar và Ross và Huân tước Douglas — nhưng không được bao lâu Robert một lần nữa được Nghị viện bổ nhiệm vào chức Hộ quốc vào tháng 2 năm 1352. David bị đưa đến Nghị viện để nói với Robert và các thành viên Three Estates điều kiện để cứu thoát cho nhà vua. Không đòi hỏi tiền chuộc, nhưng người Anh đòi người Scotland phải lập hoàng tử Anh là John xứ Gaunt làm người kế vị. Hội đồng bác bỏ yêu cầu trên, vì Robert phản đối bất kì dự định nào đe dọa đến quyền kế vị của ông. Nhà vua không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục trở về làm tù binh — sử gia Anh Henry Knighton viết về sự kiện này như sau:

... Người Scots từ chối công nhận vua của họ trừ phi ông ta hoàn toàn từ bỏ mọi ảnh hưởng của nước Anh, và cũng tương tự từ chối xưng thần. Và họ cảnh báo ông ta rằng họ sẽ chẳng những không chuộc ông ta mà còn không cho phép ông ta được chuộc trừ phi ông ta tha thứ cho mọi hành vi của họ, những điều hại mà họ đã gây ra, và tất cả các tội lỗi của họ trong suốt thời gian [vua] bị giam cầm, và ông ta phải đảm bảo an toàn cho họ, hoặc nếu không họ đe dọa sẽ chọn một vị vua khác để lãnh đạo họ.
Trước 1354 cuộc đàm phán nhằm bàn đến việc giải thoát cho nhà vua lên đến đỉnh điểm, với yêu sách tiền chuộc là 90,000 marks sẽ được trả dần trong 9 năm, đảm bảo bằng việc 20 quý tộc làm con tin, được phía Scotland đồng ý —tuy nhiên thỏa thuận này bị phá hủy bởi Robert khi ông lấy danh nghĩa người Scotland kí với Pháp một bản hiệp ước chống Anh năm 1355. Vụ bắt giữ Berwick cùng với sự hiện diện của người Pháp trên đất Anh khiến Edward III quyết định dùng quân trấn áp người Scots — vào tháng 1 năm 1356 Edward dẫn quân tiến về phía đông-nam Scotland và chiếm giữ Edinburgh và Haddington cùng phần lớn Lothians trong chiến dịch được gọi là 'Burnt Candlemas'. Sau chiến thắng của Edward trước quân Pháp vào tháng 9, người Scotland tiếp tục đàm phán về việc giải thoát cho David và quyết định cuối cùng được đưa ra vào tháng 10 năm 1357 với Hiệp ước Berwick. Theo điều khoản đó để đổi lại sự tự do cho David, tiền chuộc là 100,000 marks sẽ được chi trả định kì trong thời gian 10 năm nhưng chỉ có 2 năm đầu tiền chuộc được trả đầy đủ và phần còn lại không bao giờ được trả cho đến 1366. Việc phía Scotland không tuân hành hiệp ước Berwick khiến Edward có lý do để đưa ra yêu sách về người thừa kế ngôi vua Scotland là người của Plantagenet — điều này bị Hội đồng quốc gia Scotland và có thể là bản thân Robert bác bỏ. Điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới một cuộc nổi loạn ngắn vào năm 1363 được lãnh đạo bởi Robert và các bá tước xứ Douglas và March. Sự viện trợ của người Pháp sau đó không đủ khiến cho David quay sang phe của họ và Scotland duy trì nền hòa bình tương đối với Anh cho đến khi nhà vua bất ngờ băng hà vào ngày 21 tháng 2, 1371.

Vua của người Scots

Củng cố nền thống trị của bản thân và nhà Stewart

thumb|Robert II depicted on his great seal David được an táng tại Tu viện Holyrood và gần như ngay sau đó cuộc nổi dậy của William, Bá tước Douglas đã làm trì hoãn lễ đang quang của Robert II cho đến ngày 26 tháng 3 năm 1371. Nguyên do của sự kiện này vẫn chưa rõ ràng nhưng có thể là liên quan đến quyền kế vị của Robert, hoặc nhằm để chống lại George Dunbar, Bá tước xứ March và Quan Chánh án miền Nam, Robert Erskine. Tình hình được được giải quyết khi Robert gả con gái Isabella cho con trai của Douglas, James và cho Douglas thay thế Erskine làm Quan Chánh án phía nam xứ Forth. Việc Robert lên ngôi cũng ảnh hưởng đến nhiều quan trọng thần dưới triều David II. Nổi bật là, em trai của George Dunbar là John Dunbar, Huân tước Fife bị mất phong hiệu ở Fife và con trai của Sir Robert Erskine, Sir Thomas Erskine mất quyền kiểm soát Lâu đài Edinburgh.

Nhà Stewart cải thiện đáng kể quyền lực của mình ở phía tây, ở Atholl, và ở miền viễn bắc: các lãnh địa bá tước xứ Fife và Menteith được trao cho con trai thứ hai còn sống sót của Robert II cũng có tên là Robert, các lãnh địa bá tước Buchan và Ross (cùng với quyền quản trị Badenoch) trao cho hoàng tử thứ tư Alexander và các lãnh địa bá tước Strathearn và Caithness trao cho con trai trưởng từ cuộc hôn nhân thứ hai, David. Các con rể của Vua Robert là John MacDonald, Huân tước Isles, John Dunbar, Bá tước Moray và James, sau trở thành Bá tước Douglas đời thứ hai. Trước năm 1375, nhà vua bổ nhiệm John Barbour viết bài thơ, The Brus, một tác phẩm lịch sử nhằm củng cố hình ảnh dòng họ Stewarts là những người kế thừa hợp pháp của Robert I. Tác phẩm mô tả những hành động yêu nước và ủng hộ nhà Bruce của Sir James, the Black Douglas và Walter the Steward, phụ thân của nhà vua.

Robert II cai trị đất nước vẫn đang tranh chấp chủ quyền ở vùng biên giới với phía Anh và người Scots đã phải xưng thần với vua của Anh — những tòa lâu đài quan trọng như Berwick, Jedburgh, Lochmaben và Roxburgh vẫn có quân Anh đồn trú và người Anh kiểm soát phía nam nam Berwickshire, Teviotdale và những vùng đất rộng lớn ở Annandale và Tweeddale. Tháng 6 năm 1371, Robert chấp thuận một bản hiệp ước phòng thủ chung với nước Pháp, và mặc dù không có xung đột đáng kể nào xảy ra trong năm 1372, hỏa tiễn của người Anh bước vào tư thế sẵn sàng chiến đấu và các tòa lâu đài ở phía nam biên giới được đặt trong tình trạng cảnh giác cao. Các cuộc tấn công vào đất Anh, với sự hậu thuẫn từ Robert, bắt đầu từ năm 1373 và quyết liệt nhất trong giai đoạn 1375 - 1377. Điều này chỉ ra rằng những quyết định quân sự này có lẽ được bắt nguồn từ xung đột nhỏ lẻ của các lãnh chúa vùng biên giới hai nước. Năm 1376, Bá tước xứ March thu hồi lại Annandale, nhưng sau đó chính ông ta bị rơi vào tình huống nan giải bởi hiệp định đình chiến ở Bruges giữa Anh và Pháp.

thumb|left|Tu viện Dunfermline tức Coldingham Priory Trong những cuộc đàm phán với Edward III, Robert đổ lỗi cho các tướng lĩnh biên giới tự tiện tấn công vào đất Anh, nhưng bất kể điều đó, người Scots không mất đi những vùng đất họ vừa chiếm được, chúng được chia cho các lãnh chúa, để đảm bảo sự đoàn kết của họ để chống lại việc quân Anh phản công. Mặc dù Robert tiếp tục biện bạch hành vi gây xung đột là do các tướng lĩnh, tất cả bằng chứng đều cho thấy Robert tán thành với những chiến dịch quân sự của Scotland sau cái chết của Edward III năm 1377. John xứ Gaunt lãnh đạo quân Anh tiến hành phản kích, quân của ông này tiến đến tận Edinburgh, nơi quân Anh bị người dân ở đây đẩy lui, nhưng đã tàn phá Haddington. Carrick và James, Bá tước xứ Douglas (phụ thân của James là William vừa hoăng thệ vào tháng 4), muốn tiến hành tấn công trả đũa hành động của Gaunt. Robert có vẻ như cho rằng người Pháp đã thất tín về một hiệp định hỗ trợ đã kí trước đó vào năm 1383 và do đó quyết định đình chiến với Anh, và bất kì hành động quân sự nào cũng bị cấm trước cuộc đàm phán sắp tới tại Boulogne. Ngày 2 tháng 6 năm 1384, Robert cử Walter Wardlaw, Giám mục Glasgow đi đến hội nghị hòa binh Anh-Pháp, nhưng Carrick phớt lờ điều này và cho quân tấn công vào miền Bắc nước Anh.

Mất quyền lực và qua đời

thumb|right|Một tấm thảm thời Trung Cổ miêu tả trận chiến Otterburn nơi đồng minh thân cận của Carrick, James, Bá tước Douglas bị giết hại Con trai Vua Robert, John, Bá tước Carrick, trở thành người đứng đầu nhà Stewart ở phía nam xứ Forth trong khi Alexander, Bá tước Buchan nắm giữ phía bắc. Những bất đồng giữa Robert và con trai Carrick trong việc chiến tranh cùng với việc ông tiếp tục thất bại trong việc kiềm chế Buchan ở phía bắc dẫn tới cuộc đảo chính tháng 11 năm 1384 khi Hội đồng tước bỏ quyền lực của nhà vua và bổ nhiệm Carrick làm Người Giám hộ của Vương quốc. Với việc Robert rời khỏi chính trường, cuộc chiến được tiến hành mà không có trở ngại gì. Tháng 6 năm 1385, trong chiến dịch có sự tham gia của Bá tước Douglas và hai con trai của Robert, John, Bá tước Carrick và Robert, Bá tước xứ Fife, quân Scotland đối đầu với lực lượng Pháp gồm 1200 người. Cuộc giao tranh không có bước tiến gì đáng kể thì cuộc tranh cãi giữa các tướng lĩnh Pháp và Scotland dẫn đến việc từ bỏ tấn công vào tòa lâu đài trọng yếu ở Roxburgh. thumb|Lâu đài Dundonald, nơi Robert II băng hà năm [[1390/]]

Chiến bại của người Scotland trước quân Anh tại Trận Otterburn ở Northumberland vào tháng 8 năm 1388 khiến Carrick bị đá văng khỏi chính quyền. Một trong số các tướng Scotland tử thương là James, Bá tước xứ Douglas, đồng minh thân cận của Carrick. Douglas chết mà không có người thừa kế, dẫn đến tranh chấp về quyền thừa hưởng lãnh địa — Carrick hủng hộ Malcolm Drummond, anh rể của Douglas, trong khi phía Fife ủng hộ Sir Archibald Douglas, Huân tước Galloway người có quyền thừa hưởng di sản của Douglas. Fife, cùng với những đồng minh Douglas, và những người ủng hộ nhà vua tiến hành biểu quyết vào tháng 12 khi Quốc hội được triệu tập và chức Giám quốc được chuyển giao từ Carrick (người mới bị thương sau tai nạn té ngựa) cho Fife. Nhiều người cũng tán thành cách giải quyết của Fife đối với tình hình vô pháp luật ở miền bắc, đặc biệt là những hành động của em trai ông ta, Buchan. Tháng 3, Robert trở về Lâu đài Dundonald ở Ayrshire và ông qua đời tại đó ngày 19 tháng 4. Ông được an táng tại Scone ngày 25 tháng 4.

Hậu thế nhìn nhận

Triều đại của Robert II được thẩm định lại từ công trình nghiên cứu của các sử gia Gordon Donaldson (1967) và Ranald Nicholson (1974). Donaldson thừa nhận sự khiếm khuyết về tư liệu (vào thời điểm ông nghiên cứu) về thời đại của Robert và chấp nhận rằng các sử gia gần thời Robert không tìm thấy nhiều điều để chỉ trích ông. Sự nghiệp của Robert trước và sau khi lên ngôi được Donaldson mô tả là "kém, tầm thường, và thời đại của ông cũng không có điều gì giúp nó xán lạn hơn." Donaldson đi xa hơn khi nói tới cuộc tranh luận về tính hợp pháp của cuộc hôn nhân giữa Robert với Elizabeth Mure với phép miễn trừ của giáo hoàng, nhưng thừa nhận rằng đạo luật Kế vị năm 1371 và 1372, không thể chấm dứt sự xung đột giữa con cháu của Elizabeth Mure và của Euphemia Ross. Khi Robert tham chiến tại Halidon và Neville's Cross, theo như Donaldson, đã khiến cho ông trở nên cảnh giác với những cuộc chiến đấu với phía Anh và những hành động của các lãnh chúa đều bị ông che đậy. Tương tự như vậy, Nicholson mô tả thời đại của Robert là thiếu khả năng điều hành mà dẫn tới xung đột. Nicholson khẳng định Bá tước Douglas đã bị mua chuộc sau cuộc khởi nghĩa của ông ta trước ngày đăng cơ của Robert, và liên tưởng điều đó với mối nghi ngờ về tính hợp pháp của các con trai Robert với Elizabeth Mure.

Ngược lại, các sử gia như Stephen Boardman (2007), Alexander Grant (1984 & 1992) và Michael Lynch (1992) nhìn nhận triều đại Robert II theo hướng nhẹ nhàng hơn. Sự thân cận của Robert II với người Gaelic Scotland cũng bị chỉ trích. Ông trưởng thành ở miền đất phía tây và chịu ảnh hưởng từ ngôn ngữ và văn hóa Gaelic nên có quan hệ tốt với các lãnh chúa Gaelic tại Hebrides, Thượng Perthshire và Argyll. Trong triều đại của mình, Robert dành nhiều thời gian ở miền trung Gaelic và những lời phàn nàn từ Lowland Scotland dường như bị ảnh hưởng bởi quan điểm cho rằng nhà vua đã quá lo ngại về những mối quan tâm của Gaelic. Boardman cũng khẳng định những cái nhìn tiêu cực về Robert II một phần là do ghi chép của sử gia người Pháp Jean Froissart nói rằng '[nhà vua] có đôi mặt đỏ rực, tựa như màu của gỗ đàn hương, cho thấy rõ ràng ông ta không phải người dũng cảm, một người chỉ thích lẩn quẩn trong nhà hơn là ra ngoài trời'. Trái với quan điểm của Froissar, sử gia người Scotland — Andrew xứ Wyntoun và Walter Bower (cả hai đều sử dụng nguồn thông tin từ những ghi chép gần thời với Robert II) — và cuối thế kỉ XV và XVI các sử gia và nhà thơ Scotland nhìn nhận 'Robert II là anh hùng của dân tộc Scotland, người đã bảo toàn một vương quốc tròn vẹn, người thừa kế xứng đáng của Robert I'.

Grant (1992) thừa nhận trong triều đại của Robert II, cả về đối nội và đối ngoại đều "không thành công lắm". Về phản ứng của William, Bá tước Douglas khi ông ta tiến hành nổi dậy ngay trước lễ đăng quang của Robert, Grant không cho rằng Douglas bằng cách nào đó chống lại quyền kế vị hợp pháp của Robert, nhưng cũng khẳng định sự ủng hộ hoàng gia đã không còn được như dưới thời David II. Grant cũng tán thành rằng những cuộc biểu tình nhắm vào Robert và Thomas Erskine, những người nắm giữ Edinburgh, Stirling và Dumbarton từ người tiền nhiệm của Robert. Liên minh do Carrick lãnh đạo, đã làm suy yếu vị thế nhà Vua, thao túng Quốc hội tháng 11 năm 1384 và loại trừ Robert II khỏi mọi thực quyền mà ông đang có. Grant không có bằng chứng gì để khẳng định sự già cả suy yếu của Robert, và đoán rằng sự thất thế của Carrick năm 1388, và sau đó là quyết định tham gia vào Hội nghị đình chiến 1389 với Anh - Pháp, cả hai đều có sự thúc đẩy của Robert II. Tuy nhiên quyền lực không được trao trả cho Robert II mà rơi vô tay em trai của Carrick, Robert, Bá tước xứ Fife một lần nữa cho thấy nhà vua lại chịu sự sắp đặt của các con trai ông..

Michael Lynch chỉ ra rằng triều đại của Robert II từ 1371 đến khi Carrick trở thành Giám quốc năm 1384 chứng kiến nền thái bình thịnh vượng – thời mà Abbot Bower miêu tả là một giai đoạn "yên tĩnh, thịnh vượng, và hòa bình". Lynch đoán rằng những mâu thuẫn trong thập niên 1450 giữa James II với nhà Douglas (mà một vài sử gia cho là từ chính sách dung túng các lãnh chúa dưới thời Robert II), trên thực tế là tiếp nối quá trình phát triển quyền lực của các lãnh chúa bắt đầu từ thời David II. Sự suy yếu của chính quyền trung ương nếu có, Lynch đoán rằng, không đến trước năm 1384 mà đến sau đó. Cuộc đảm chính năm 1384 cho thấy rằng Robert II thương yêu cậu con trai thứ ba, Alexander Stewart, Bá tước Buchan (còn gọi là chó sói vùng Badenoch).

Hình tượng văn học

Robert II là nhân vật trong nhiều tuyển thuyết lịch sử, bao gồm:

  • The Three Perils of Man; or, War, women, and witchcraft (1822) của James Hogg. Cốt truyện lấy bối cảnh thời Robert II với "đất nước hạnh phúc và hòa bình, nhưng lại chịu sức ép từ nước Anh bên kia biên giới". Tại Cung điện Linlithgow nơi Robert hứa hôn con gái mình Margaret Stewart "cho một hiệp sĩ có thể giành lại Roxburgh từ tay người Anh". Và Margaret đưa ra thêm đề nghị của mình, là "nếu anh ta thất bại, thì anh ta sẽ mất hết tất cả đất đai, lâu đài, thị trấn và thành tháp trao cho tôi." Không có ai dám đáp lại thách thức, Margaret tự mình tấn công lâu đài, đánh bại Huân tước Musgrave và tình nhân ông ta là Jane Howard.
  • The Lords of Misrule (1976) của Nigel Tranter. Bao gồm các sự kiện diễn ra trong giai đoạn 1388 đến 1390. Mô tả những năm cuối triều Robert II và sự nổi lên của Robert III của Scotland. Khi vị vua già trở nên "yếu đuối, mệt mỏi và mù quáng", thì các con trai, con gái và các quý tộc nổi lên tranh giành quyền lực. Đất nước Scotland lâm vào tình trạng vô chủ và bị tàn phá bởi những cuộc xung đột.Robert Stewart, Quận công Albany, và Alexander Stewart, Bá tước Buchan, là những nhân vật tiêu biểu.
  • Courting Favour (2000) của Nigel Tranter. Nói về sự nghiệp của John Dunbar, Bá tước Moray dưới triều vua David II của Scotland và Robert II. John là con rể và về sau trở thành đặc sứ của nhà vua.

Hôn nhân và con cái

Năm 1336, ông kết hôn lần đầu với Elizabeth Mure (mất 1355), con gái của Sir Adam Mure xứ Rowallan. Cuộc hôn nhân bị chỉ trích là không hợp quy chuẩn, nên ông kết hôn lần nữa và năm 1349 sau khi nhận phép miễn trừ từ giáo hoàng năm 1347.

Từ cuộc hôn nhân này, ông có 10 người con sống đến tuổi trưởng thành:

  • John (mất 1406), về sau là Vua Scotland với vương hiệu Robert III, kết hôn với Anabella Drummond.
  • Walter (mất 1363), kết hôn với Isabella MacDuff, Nữ Bá tước xứ Fife.
  • Robert, Bá tước xứ Fife từ từ 1398 là Quận công Albany (mất 1420), kết hôn năm 1361 với Margaret Graham, Nữ Bá tước Menteith, tái hôn năm 1381 với Muriella Keith (mất 1449).
  • Alexander Stewart, Bá tước Buchan (mất 1405), biệt danh "Chó sói xứ Badenoch", kết hôn năm 1382 với Euphemia xứ Ross.
  • Margaret, kết hôn với John of Islay, Huân tước Isles.
  • Marjorie, kết hôn với John Dunbar, Bá tước Moray, và Sir Alexander Keith.
  • Elizabeth, kết hôn với Thomas de la Hay, Huân tước High Constable của Scotland.
  • Isabella (mất 1410), kết hôn với James Douglas, Bá tước Douglas thứ 2 (mất 1388), tái hôn năm 1389 với David Edmonstone.
  • Johanna (Jean), kết hôn với Sir John Keith (mất 1375), rồi John Lyon, Huân tước Glamis (mất 1383) và cuối cùng là Sir James Sandilands.
  • Katherine, kết hôn với Sir Robert Logan xứ Grugar và Restalrig, Đô đốc Hải quân Scotland.

Năm 1355, Robert kết hôn lần thứ hai với Euphemia de Ross (mất 1387), con gái của Hugh, Bá tước xứ Ross. Họ có với nhau 4 người con: David Stewart, Bá tước Strathearn, sinh khoảng 1356 và mất năm 1389. Walter Stewart, Bá tước Atholl, sinh khoảng năm 1360, bị chém đầu ở Edinburgh năm 1437 vì tham gia vào vụ ám sát Vua King James I. Elizabeth, kết hôn năm 1380 với David Lindsay, Bá tước Crawford thứ 1. Egidia, kết hôn năm 1387 với William Douglas xứ Nithsdale.

Vua Robert II có rất nhiều con ngoại hôn với rất nhiều tình nhân, trong số đó có bốn con trai cùng sủng phi Mariota Cardeny, con gái của Sir Cardeny, và góa phụ của Alexander Mac Naugthon: Alexander Stewart, xứ Inverlunan Sir John Stewart, xứ Cardeny James Stewart, xứ Abernethy và Kinfauna Walter Stewart

Với Moira Leitch (theo truyền thống): *Sir John Stewart, Quận trưởng Bute (1360 – d.1445/9), tổ tiên của Hầu tước xứ Bute

Một số người con khác không rõ mẹ:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Robert II** (2 tháng 3, 1316 – 19 tháng 4, 1390) cai trị với vương hiệu Vua của người Scots từ 1371 cho đến khi qua đời, là vị quân vương đầu tiên của Nhà
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**Charles II của Anh** (29 tháng 5 năm 1630 – 6 tháng 2 năm 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và
thumb|JTượng James I tại [[Đài tưởng niệm Scott]] **James I** (27 tháng 5 năm 1394 - 21 tháng 2 năm 1437), là vua của Scotland từ năm 1406 cho đến khi băng hà. Ông là
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,
**Edgar** hay **Étgar mac Maíl Choluim** (tiếng Gaelic hiện đại: _Eagar mac Mhaoil ​​Chaluim_), biệt danh _Probus_, còn gọi là "_Dũng sĩ_" (khoảng 1074 – 8 tháng 1 năm 1107), là Vua của Scotland từ
**Chiến tranh giành độc lập lần thứ nhất của Scotland** (tiếng Anh: The First War of Scottish Independence), là giai đoạn đầu tiên trong một loạt các cuộc chiến tranh giữa hai vương quốc Anh
thumb|Tượng James V tại Đài tưởng niệm Scott **James V của Scotland** (tiếng Pháp: _Jacques V d'Écosse_; tiếng Scotland: _James V o Scotland_; 10 tháng 4 năm 1512 – 14 tháng 12 năm 1542), là
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**James IV** (17 tháng 3 năm 1473 - 9 tháng 9 năm 1513), là vua của Scotland từ ngày 11 tháng 6 năm 1488 đến khi qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1513.
**Mary của Scotland** () có thể đề cập đến: ## Nhân danh * Mary I của Scotland (1542–1587), Nữ vương của Scotland từ 1542 đến 1567 * Mary II của Anh (1662–1694), Nữ vương của
**Edward III của Anh** (13 tháng 11, 1312 – 21 tháng 6, 1377) là Vua của Anh và Lãnh chúa Ireland từ tháng 1 1327 đến khi qua đời; cuộc đời hiển hách của ông
**George II của Vương quốc Liên hiệp Anh** (George Augustus, tiếng Đức: _Georg II. August_, 30 tháng 10 hoặc 9 tháng 11 năm 1683 – 25 tháng 10 năm 1760) là Quốc vương Liên hiệp
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**William II của Anh** (tiếng Norman cổ: Williame) (khoảng 1056 - 2 tháng 8 năm 1100), người con thứ ba của "William Nhà chinh phạt", là vua nước Anh từ 1087 tới 1100. Ông là
**Henry II** (5 tháng 3 năm 1133 – 6 tháng 7 năm 1189), còn được gọi là **Henry Curtmantle** (tiếng Pháp: Court-manteau), **Henry FitzEmpress**, hay **Henry Plantagenet** là quốc vương nước Anh (1154 – 1189),
**George VI của Liên hiệp Anh** (Albert Frederick Arthur George; 14 tháng 12 năm 1895 – 6 tháng 2 năm 1952) là Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự
nhỏ|Cây gia phả quân chủ Scotland cùng với những người tiếm ngôi. Những người tiếm ngôi trong cây được in nghiêng.Dưới đây là **danh sách quân chủ Scotland**, tức nguyên thủ nhà nước của vương
**Edward I của Anh** (17/18 tháng 6 1239 – 7 tháng 7 1307), còn được gọi là **Edward Longshanks** và **Kẻ đánh bại người Scots** (Latin: _Malleus Scotorum_), là Vua của Anh từ 1272 đến
**Vương quốc Scotland** (tiếng Gaelic: _Rìoghachd na h-Alba_, tiếng Scots: _Kinrick o Scotland_) là một quốc gia có chủ quyền ở Tây Bắc châu Âu tồn tại từ năm 843 tới 1707. Vương quốc này
**Scotland** (phát âm tiếng Anh: , ) là một quốc gia cấu thành Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, chiếm một phần ba diện tích phía bắc của đảo Anh, giáp với Anh
**Lịch sử Scotland** có liên hệ mật thiết tiến trình phát triển của quần đảo Anh với sự biến dạng liên tục của cấu trúc dân cư. Tiến trình Lịch sử Scotland luôn gắn liền
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**James VI và I** (19 tháng 6 năm 1566 – 27 tháng 3 năm 1625) là vua Scotland với vương hiệu là **James VI**, và là vua Anh và vua Ireland với vương hiệu là
**Elizabeth II của Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (Elizabeth Alexandra Mary; 21 tháng 4 năm 1926 – 8 tháng 9 năm 2022) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, Bắc Ireland và
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Henry VII** (tiếng Wales: _Harri Tudur_; tiếng Anh: _Henry VII of England_; 28 tháng 1, 1457 - 21 tháng 4, 1509) là Quốc vương của nước Anh và là Lãnh chúa của Ireland, lên ngôi
**Philippe VI của Pháp** (tiếng Pháp: Philippe; 1293 - 22 tháng 8 năm 1350), được gọi là _Fortunate_ (tiếng Pháp: _le Fortuné_) là bá tước của Valois, là vị vua đầu tiên của Pháp từ
**Elizabeth Stuart** (28 tháng 12 năm 1635 – 8 tháng 9 năm 1650) là con gái thứ hai của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Từ khi sáu tuổi cho đến khi
**_Crusader Kings II_** (), gọi tắt là **_CKII_**, là một trò chơi máy tính thuộc thể loại đại chiến lược được phát triển bởi Paradox Development Studio và phát hành bởi Paradox Interactive. Lấy bối
**Flower of Scotland** (), hay còn được biết tới là **Bông hoa Scotland** theo tiếng Việt, là một trong những bài hát quốc ca không chính thức của Scotland, bên cạnh những bài hát khác
**Robert Edward Lee** (19 tháng 1 năm 1807 – 12 tháng 10 năm 1870) là sĩ quan quân đội Hoa Kỳ, nổi tiếng vì ông nhận chức Đại tướng thống lãnh quân đội Liên minh
**Louis VIII Sư tử** (5 tháng 9 năm 1187 – 8 tháng 11 năm 1226) là vua Pháp từ năm 1223 đến năm 1226. Ông là một vị quân chủ thuộc vương tộc Capet. Louis
"**Love Story**" là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác bài hát người Mỹ Taylor Swift, được hãng đĩa Big Machine Records phát hành làm đĩa đơn mở đường cho
**Elizabeth I của Anh** (tiếng Anh: _Elizabeth I of England;_ tiếng Pháp: _Élisabeth Ire d'Angleterre;_ tiếng Tây Ban Nha: _Isabel I de Inglaterra;_ 7 tháng 9 năm 153324 tháng 3 năm 1603) là Nữ vương
**Thân vương xứ Wales** (, ), còn gọi là **Công tước xứ Wales** (tại Việt Nam thường dịch sai thành **Hoàng tử/Hoàng thân xứ Wales**), là một tước hiệu theo truyền thống thường được trao
**George I** (George Louis; ; 28 Tháng 5 năm 1660 – 11 tháng 6 năm 1727. Ông là con trai cả của Ernest Augustus, Công tước xứ Brunswick-Lüneburg, và vợ của ông, Sophia xứ Palatinate.
**Công tước xứ Rothesay** (; tiếng Gael Scotland: _Diùc Baile Bhòid;_ tiếng Scotland: _Duik o Rothesay_) là tước hiệu triều đại được sử dụng bởi người thừa kế ngai vàng Anh, hiện là William, Thân
**Viện Đại học Glasgow** hay **Đại học Glasgow** (tên tiếng Anh: _University of Glasgow_; tiếng Gaelic: _Oilthigh Ghlaschu_) là viện đại học lớn nhất của thành phố Glasgow, Scotland (Vương quốc Liên hiệp Anh và
**Susan Hamilton** (9 tháng 6 năm 1814 – 28 tháng 11 năm 1889) là một nữ quý tộc người Scotland, con gái duy nhất của Alexander Hamilton, Công tước thứ 10 xứ Hamilton và Susan
**Friedrich Wilhelm Viktor Abert von Hohenzollern, Wilhelm II** của Phổ và Đức, (27 tháng 1 năm 1859 – 4 tháng 6 năm 1941) là vị Hoàng đế (_Kaiser_) cuối cùng của Đế quốc Đức, đồng
**Công tước xứ Albany** (tiếng Anh: _Duke of Albany_) là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Scotland, và từ thế kỷ XIX thuộc Đẳng cấp quý tộc Vương quốc Liên hiệp Anh, thường
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
**Leonor của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Castilla_; tiếng Anh: _Eleanor of Castilla_; năm 1241 – 28 tháng 11 năm 1290) là Vương hậu nước Anh từ năm 1272 đến năm 1290, và
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Stephen** ( – 25 tháng 10, 1154), còn thường được gọi là **Stephen xứ Blois** (theo tiếng Pháp, là **', về sau là **'), là cháu trai (gọi William I của Anh là ông ngoại) của
**Catherine Sedley, Nữ Bá tước xứ Dorchester và Bá tước phu nhân xứ Portmore** (21 tháng 12 năm 1657 – 26 tháng 10 năm 1717), là một nữ quý tộc và cận thần người Anh.
**Louis XIV của Pháp** (; 5 tháng 9 năm 16381 tháng 9 năm 1715), còn được gọi là **Louis Đại đế** (, ) hay **Vua Mặt Trời** (, ), là một quân chủ thuộc Nhà