✨Republic F-84 Thunderjet

Republic F-84 Thunderjet

Chiếc Republic F-84 Thunderjet là một máy bay tiêm kích-ném bom phản lực do Hoa Kỳ chế tạo. Bắt nguồn từ một đề xuất năm 1944 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ về một kiểu máy bay tiêm kích bay ngày, chiếc F-84 bay lần đầu vào năm 1946. Mặc dù nó được đưa vào sử dụng năm 1947, Thunderjet chịu nhiều vấn đề về cấu trúc và động cơ đến nỗi một báo cáo năm 1948 của Không quân cho là nó không thể thực hiện bất kỳ khía cạnh nào của nhiệm vụ được dự định và đề nghị chấm dứt chương trình. Chiếc máy bay được xem là chưa sử dụng hoàn toàn cho đến phiên bản F-84D năm 1949 và thiết kế chỉ chín mùi ở phiên bản cuối F-84G được giới thiệu năm 1951. Đến năm 1954, kiểu Thunderjet cánh thẳng được bổ sung thêm các kiểu máy bay tiêm kích cánh xuôi F-84F Thunderstreak và máy bay trinh sát hình ảnh RF-84F Thunderflash.

Chiếc Thunderjet trở nên máy bay tấn công chủ lực của Không quân trong Chiến tranh Triều Tiên, thực hiện 86.408 phi vụ và phá hủy 60% các mục tiêu mặt đất trong cuộc chiến, cũng như là tám chiếc máy bay tiêm kích MiG Xô Viết. Trên phân nửa trong tổng số 7.524 chiếc F-84 được sản xuất phục vụ cho các nước thành viên khối NATO, và nó là kiểu máy bay đầu tiên bay cùng Đội thao diễn Thunderbirds của Không quân Mỹ. Bộ Chỉ huy Không quân Chiến lược sử dụng những chiếc F-84 Thunderjet từ năm 1948 đến 1957.

Chiếc F-84 là kiểu máy bay tiêm kích phản lực sản xuất hàng loạt đầu tiên được tiếp nhiên liệu trên không, cũng là máy bay tiêm kích đầu tiên có khả năng mang bom nguyên tử. Những chiếc F-84 cải tiến được sử dụng trong nhiều dự án khác thường, bao gồm Dự án FICON được mang bên dưới máy bay ném bom mẹ B-29 và B-36, và máy bay thử nghiệm động cơ turbo cánh quạt siêu thanh XF-84H Thunderscreech.

Thiết kế và phát triển

nhỏ|phải|Một chiếc F-84G tại căn cứ không quân Chaumont, Pháp, năm 1953 Năm 1944, nhà thiết kế chính của hãng Republic Aviation, Alexander Kartveli, bắt đầu làm việc trên một kiểu máy bay tiêm kích gắn động cơ turbo phản lực thay thế cho chiếc máy bay tiêm kích động cơ piston P-47 Thunderbolt. Những nỗ lực ban đầu nhằm tái thiết kế khung chiếc P-47 để gắn một động cơ phản lực tỏ ra không hiệu quả do mặt cắt ngang lớn của những kiểu động cơ turbo phản lực lực ép ly tâm đời đầu. Thay vào đó, Kartveli và nhóm của ông thiết kế một máy bay hoàn toàn mới với thân suôn thẳng bị chiếm phần lớn bởi một động cơ turbo phản lực nén theo trục, nhiên liệu được chứa trong những cánh thẳng khá dày.

Lịch sử hoạt động

Chiếc F-84B, vốn khác biệt chiếc YP-84A chỉ ở chỗ có súng máy M3 bắn nhanh hơn, được đưa vào hoạt động với Không đoàn Tiêm kích 14 tại Căn cứ Không quân Dow, Bangor, Maine vào tháng 12 năm 1947. Lập tức phải áp dụng các giới hạn khi bay, giới hạn tốc độ tối đa xuống Mach 0,8 do hiện tượng đảo lộn trong điều khiển, và giới hạn gia tốc tối đa đến 5,5 G vì những tổn hại đến lớp vỏ thân máy bay. Vấn đề càng tồi tệ hơn khi thiếu hụt phụ tùng thay thế và khó khăn khi bảo trì làm cho chiếc máy bay được gán tên lóng "Mechanic's Nightmare" (Ác mộng của cơ khí).

Nhờ vào kiểu cánh ngang và dày, chiếc Thunderjet có được đặc tính khí động học khá tốt và có thể dễ dàng đạt được tốc độ giới hạn Mach 0,82 khi động cơ hoạt động toàn phần ở cao độ thấp. Chiếc máy bay có đủ lực đẩy để có thể bay nhanh hơn, nhưng vượt quá tốc độ giới hạn trên ở cao độ thấp gây hậu quả góc mũi khá mạnh và hỏng cấu trúc có thể gây gảy cánh. Ở độ cao trên 4.600 m (15.000 ft.), chiếc F-84 có thể bay nhanh hơn, nhưng phải trả giá là bị dập dềnh nghiêm trọng. May mắn là, tốc độ bay cho phép điều khiển dễ dàng để thực hiện ném bom bổ nhào từ độ cao 3.000 m (10.000 ft). Giới hạn tốc độ tối đa tỏ ra khá bất tiện khi đối đầu cùng những chiếc máy bay Mikoyan-Gurevich MiG-15 Xô Viết tại Triều Tiên. Bay chậm hơn những chiếc MiG, F-84 lại không thể quay vòng gắt khi chỉ chịu được áp lực gia tốc tức thời tối đa là 3G, rồi sau đó chịu mất tốc độ khá nhanh. Một phi công F-84E từng bắn hạ được hai chiếc máy bay MiG đã ghi được chiến công thứ hai của mình bằng cách lái máy bay của mình vào thế ngóc mũi có chủ định. Những chiếc MiG theo đuổi anh ta đã không thể bắt kịp kiểu cơ động mạnh bạo này và một chiếc đã bị rơi xuống đất. May mắn cho viên phi công là chiếc máy bay không bị vỡ ra nhưng khung máy bay bị hư hại nặng nề. Chiếc F-84 là một bệ súng vững chắc và hệ thống máy tính ngắm đã hỗ trợ cho việc ném bom và bắn chính xác. Phi công thường tán dương chiếc máy bay của Republic về tính vững chắc đã trở thành huyền thoại.

Phi công đặt tên lóng cho chiếc Thunderjet là "The Lead Sled." Nó cũng còn được gọi bằng những cái tên khác như "The Iron Crowbar," "a hole sucking air," "The Hog " ("The Groundhog"), và "The World's Fastest Tricycle" (chiếc ba bánh nhanh nhất thế giới) như là chứng cứ cho đường lăn cất cánh quá dài.

Chiến tranh Triều Tiên

Chiếc Thunderjet có thành tích hoạt động nổi bật trong Chiến tranh Triều Tiên. Cho dù phiên bản F-84B và F-84C không thể bố trí được vì động cơ J35 của chúng có tuổi thọ hoạt động chỉ được 40 giờ, phiên bản F-84D và F-84E được đưa vào chiến đấu tại Liên đội Tiêm kích Hộ tống 27 vào ngày 7 tháng 12 năm 1950. Ban đầu chiếc máy bay được giao phó vai trò hộ tống những chiếc máy bay ném bom B-29 Superfortress. Chiến công không chiến đầu tiên của chiếc Thunderjet được ghi vào ngày 21 tháng 1 năm 1951 với giá phải trả là hai chiếc F-84 bị mất. Chiếc F-84 thuộc về một thế hệ tụt hậu so với kiểu máy bay cánh xuôi Xô Viết Mikoyan-Gurevich MiG-15 và bị nó qua mặt, đặc biệt là khi những chiếc MiG này được phi công Liên Xô cầm lái, và nhiệm vụ đối đầu những chiếc MiG này được nhanh chóng chuyển cho những chiếc F-86 Sabre. Giống như chiếc tiền nhiệm P-47 nổi tiếng, F-84 được chuyển sang vai trò can thiệp tầm thấp mà nó hoạt động nổi trội hơn.

Chiếc F-84 đã bay tổng cộng 86.408 phi vụ, ném 50.427 tấn (111.171.000 lb) bom và 5.560 tấn (12.258.000 lb) bom napalm. Không quân Hoa Kỳ ghi nhận F-84 đã chịu trách nhiệm đến 60% các mục tiêu mặt đất bị tiêu diệt trong cuộc chiến. Hoạt động đáng kể nhất của F-84 là cuộc tấn công đập Sui-ho năm 1952. Trong cuộc chiến này, F-84 trở thành máy bay tiêm kích Hoa Kỳ đầu tiên áp dụng tiếp nhiên liệu trên không. Trong không chiến, phi công F-84 bắn rơi được tám máy bay MiG-15 nhưng bị thiệt hại đến 64 máy bay. Có tổng cộng 335 máy bay bị mất thuộc các phiên bản F-84D, E và G.

Các thành tích đáng kể

  • Chiếc F-84 là máy bay đầu tiên được Đội thao diễn hàng không [[Thunderbirds sử dụng, đã bay những chiếc F-84G Thunderjet từ năm 1953 đến năm 1955 và chiếc F-84F Thunderstreak từ năm 1955 đến năm 1956. Chiếc F-84E cũng được Đội thao diễn hàng không Skyblazers của Không lực Hoa Kỳ tại châu Âu (USAFE) sử dụng từ năm 1950 đến năm 1955.
  • Vào ngày 7 tháng 9 năm 1946, chiếc nguyên mẫu thứ hai XP-84 đã lập kỷ lục quốc gia về tốc độ 977,2 km/h (527,6 knot, 607,2 mph), chỉ hơi chậm hơn so với kỷ lục thế giới 985,2 km/h (532,0 knot, 612,2 mph) của chiếc máy bay Anh Gloster Meteor.
  • Vào ngày 22 tháng 9 năm 1950, hai chiếc EF-84E đã bay vượt Đại Tây Dương từ Anh Quốc sang Hoa Kỳ. Một chiếc bị hết nhiên liệu bên trên bầu trời Newfoundland, Canada nhưng chiếc kia đã thành công trong chuyến bay kéo dài 10 giờ 2 phút và ba lần tiếp nhiên liệu trên không. Chuyến bay đã chứng tỏ rằng một số lượng lớn máy bay tiêm kích có thể được chuyển nhanh chóng vượt Đại Tây Dương.
  • F-84G là máy bay tiêm kích đầu tiên có khả năng tiếp nhiên liệu trên không có sẵn và là máy bay một chỗ ngồi đầu tiên có khả năng mang một bom nguyên tử.
  • Vào ngày 20 tháng 8 năm 1953, 17 chiếc F-84G sử dụng phương thức tiếp nhiên liệu trên không đã bay từ Hoa Kỳ sang Anh Quốc. Cuộc hành trình 7.220 km (4.485 dặm/3.900 hải lý) là chuyến bay không nghỉ dài nhất từng được những máy bay phản lực thực hiện.

Đến giữa những năm 1960, chiếc F-84/F-84F được thay thế bởi F-100 Super Sabre và kiểu RF-84F được thay bằng RF-101 Voodoo tại các đơn vị Không quân Hoa Kỳ, được chuyển xuống các nhiệm vụ trong Không lực Vệ binh Quốc gia. Chiếc F-84F Thunderflash cuối cùng nghỉ hưu khỏi lực lượng Vệ binh Quốc gia vào năm 1971. Ba chiếc RF-84F của Không quân Hy Lạp nghỉ hưu vào năm 1991 là những chiếc F-84 hoạt động cuối cùng.

Các phiên bản

Các phiên bản cánh ngang

;XP-84:Hai chiếc nguyên mẫu đầu tiên. ;XP-84A:Chiếc nguyên mẫu thứ ba với động cơ J35-GE-15 mạnh hơn. ;YP-84A:Máy bay thử nghiệm hoạt động thực tế; có 15 chiếc được chế tạo. ;P-84B (F-84B):Phiên bản sản xuất đầu tiên, trang bị động cơ J35-A-15; có 226 chiếc được chế tạo. ;EF-84B:Hai chiếc F-84B được cải biến thành máy bay tiêm kích ký sinh để được gắn lên đầu cánh một chiếc máy bay ném bom ETB-29 trong Kế hoạch Tom-Tom. ;F-84C:Phiên bản quay lại kiểu động cơ J35-A-13 tin cậy hơn, cải tiến các hệ thống nhiên liệu, thủy lực và điện; có 191 chiếc được chế tạo. ;F-84D:Phiên bản trang bị động cơ J35-A-17, nhiều cải tiến về cấu trúc. Ống Pitot được chuyển từ vây đuôi đến ngăn ống hút gió và những vây nhỏ hình tam giác được thêm vào phía ngoài các thùng nhiên liệu; có 154 chiếc được chế tạo. ;F-84E:Phiên bản trang bị động cơ J35-A-17D, radar Sperry AN/APG-30, thân được kéo dài thêm 30 cm (12 inch) để có một buồng lái rộng hơn, các đế thu vào được dành cho rocket RATO hỗ trợ cất cánh, các đế "ướt" cánh phía trong cho phép mang thêm một cặp thùng nhiên liệu 885 L (230 US gal). Có thể phân biệt với những phiên bản trước đó do sự hiện diện của hai lỗ thông nhiên liệu dưới bụng. Đa số các máy bay được tái trang bị kiểu nóc buồng lái được tăng cường của phiên bản F-84G; có 843 chiếc được chế tạo. ;EF-84E:Hai chiếc F-84E được cải biến thành máy bay nguyên mẫu dùng trong thử nghiệm những phương pháp tiếp nhiên liệu trên không khác nhau. ;F-84G:Phiên bản máy bay tiêm kích-ném bom có khả năng ném bom nguyên tử Mark 7 sử dụng LABS, trang bị động cơ J35-A-29, lái tự động, khả năng tiếp nhiên liệu trong khi bay sử dụng cả hai phương pháp dùng phểu (gắn trên mép trước cánh trái) và vòi (gắn trên thùng nhiên liệu đầu chót cánh), áp dụng nóc buồng lái kiều nhiều khung mà sau này tái trang bị cho các phiên bản F-84 cánh thẳng cũ hơn. Có 3.025 chiếc được chế tạo (1.936 chiếc cho khối NATO trong chương trình MDAP). ;EF-84G:Phiên bản thử nghiệm cất cánh đường băng bằng 0 để phòng thủ điểm, sử dụng rocket đẩy từ kiểu tên lửa hành trình MGM-1 Matador, không được đưa vào sản xuất. ;F-84KX:80 chiếc F-84B cũ của Không quân Hoa Kỳ được cải biến thành mục tiêu kéo theo dành cho Hải quân Hoa Kỳ.

Các phiên bản cánh xuôi

;YF-84F: Hai chiếc nguyên mẫu cánh xuôi cải biến từ kiểu F-84F, ban đầu được đặt tên là YF-96. ;F-84F Thunderstreak: Phiên bản cánh xuôi trang bị động cơ Wright J65. ;RF-84F Thunderflash: Phiên bản trinh sá hình ảnh F-84F, có 715 chiếc được chế tạo. ;XF-84H Thunderscreech: Phiên bản thử nghiệm turbo cánh quạt siêu thanh. ;YF-84J: 2 chiếc máy bay được cải biến trang bị động cơ General Electric J73.

Các nước sử dụng

nhỏ|F-84 Thunderjet của [[Không quân Bồ Đào Nha.]] ;

  • Không quân Bỉ ;
  • Không quân Trung Hoa Dân Quốc ;
  • Không quân Đan Mạch ;
  • Không quân Pháp ;
  • Không quân Đức ;
  • Không quân Hy Lạp ;
  • Không quân Hoàng gia Iran ;
  • Không quân Italy ;
  • Không quân Hà Lan ;
  • Không quân Na Uy ;
  • Không quân Bồ Đào Nha ;
  • Không quân Hoàng gia Thái Lan ;
  • Không quân Thổ Nhĩ Kỳ ;
  • Không quân Hoa Kỳ ;
  • Không quân Nam Tư

Đặc điểm kỹ thuật (F-84G Thunderjet)

thumb|F-84C Tham khảo: Encyclopedia of US Air Force Aircraft and Missile Systems

Đặc tính chung

  • Đội bay: 01 người
  • Chiều dài: 11.60 m (38 ft 1 in)
  • Sải cánh: 11,10 m (36 ft 5 in)
  • Chiều cao: 3,84 m (12 ft 7 in)
  • Diện tích bề mặt cánh: 24 m² (260 ft²)
  • Lực nâng của cánh: 342 kg/m² (70 lb/ft²)
  • Trọng lượng không tải: 5.200 kg (11.470 lb)
  • Trọng lượng có tải: 8.200 kg (18.080 lb)
  • Trọng lượng cất cánh tối đa: 10.585 kg (23.340 lb)
  • Động cơ: 1 x động cơ Allison J35-A-29 turbo phản lực, lực đẩy 5.560 lbf (24,89 kN)

    Đặc tính bay

  • Tốc độ lớn nhất: 1.000 km/h (540 knot, 622 mph)
  • Tốc độ bay đường trường: 770 km/h (413 knot, 475 mph)
  • Tầm bay tối đa: 3.200 km (1.700 nm, 2.000 mi) với thùng nhiên liệu phụ
  • Bán kính chiến đấu: 1.600 km (870 nm, 1.000 mi)
  • Trần bay: 12.350 m (40.500 ft)
  • Tốc độ lên cao: 19,1 m/s (3.765 ft/min)
  • Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0,31

    Vũ khí

  • 6 x súng máy Browning M2 12,7 mm (0,50 in), 300 viên đạn mỗi khẩu
  • 2.020 kg (4.450 lb) bom và rocket, kể cả một trái bom nguyên tử Mark 7

    Thiết bị điện tử

  • Thiết bị ngắm súng A-1CM hay A-4 với radar đo tầm xa APG-30 hay MK-18
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Chiếc **Republic F-84 Thunderjet** là một máy bay tiêm kích-ném bom phản lực do Hoa Kỳ chế tạo. Bắt nguồn từ một đề xuất năm 1944 của Không lực Lục quân Hoa Kỳ về một
**Republic F-84F Thunderstreak** là một loại máy bay tiêm kích-bom phản lực cánh xuôi do Hoa Kỳ chế tạo. F-84F là một thiết kế mới so với loại F-84 Thunderjet cánh thẳng. **RF-84F Thunderflash** là
**Republic F-105 Thunderchief** **(Thần sấm)**, thường được các đội bay gọi là "**Thud**", là một kiểu máy bay tiêm kích-ném bom siêu thanh được Không quân Hoa Kỳ sử dụng. Chiếc F-105 đạt được tốc
Chiếc máy bay Mỹ **Republic P-47 Thunderbolt**, còn được gọi là _Jug_ (cái bình), là một trong những mẫu máy bay tiêm kích một động cơ lớn nhất vào thời kỳ đó. Nó là một
Đề án **FICON** (**Fi**ghter **Con**veyor – Người vận chuyển tiêm kích) được Không quân Hoa Kỳ (USAF) tiến hành vào thập niên 1950 để thử nghiệm tính khả thi của một máy bay ném bom
**Convair B-36 "Peacemaker"** là một kiểu máy bay ném bom chiến lược được chế tạo bởi hãng Convair cho Không quân Hoa Kỳ. B-36 là máy bay gắn động cơ piston lớn nhất từng được
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## N ### Naglo * Naglo D.II ### Nakajima Aircraft Company * Nakajima A1N * Nakajima A2N * Nakajima A4N * Nakajima A6M2-N
Hành lang MiG (MiG Alley) **Hành lang MiG** (tiếng Anh:**MiG Alley**) hay **Thung lũng MiG** là tên của phi công Không quân Hoa Kỳ đặt cho một vị trí địa lý nằm ở đông bắc
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
Mikoyan-Gurevich **MiG-15** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-15) (tên ký hiệu của NATO đặt là "**Fagot**") là một máy bay tiêm kích phản lực thế hệ thứ nhất của Liên Xô do Artem Mikoyan và
[[Messerschmitt Me 262|Me 262, loại máy bay tiêm kích phản lực đưa vào chiến đấu đầu tiên trên thế giới bởi Đức Quốc xã.]] Máy bay được phân loại thành **tiêm kích phản lực thế
**Dassault M.D.450 Ouragan** (tiếng Pháp của từ Hurricane (cuồng phong) là một loại máy bay cường kích phản lực của Pháp được sản xuất vào cuối thập niên 1940. Trong khi kỹ thuật áp dụng
**USS _Sitkoh Bay_ (CVE-86)**là một tàu sân bay hộ tống lớp _Casablanca_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã hoạt động cho đến hết Thế Chiến
Đây là một danh sách máy bay thí nghiệm. Đa số máy bay được thử nghiệm khi nó còn là thiết kế đầu tiên, vì vậy danh sách này sẽ tập trung vào những thiết