✨Dassault Ouragan

Dassault Ouragan

Dassault M.D.450 Ouragan (tiếng Pháp của từ Hurricane (cuồng phong) là một loại máy bay cường kích phản lực của Pháp được sản xuất vào cuối thập niên 1940. Trong khi kỹ thuật áp dụng trên loại máy bay này tầm thường, nhưng Ouragan lại đóng vai trò quyết định trong sự hồi sinh của ngành công nghiệp hàng không Pháp sau Chiến tranh Thế giới II.

Thiết kế và phát triển

Do đất nước bị phát xít Đức chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới II, nên người Pháp không có khả năng để đóng góp một cách đáng kể trong sự tiến bộ vĩ đại về thiết kế máy bay đã được thực hiện trong Chiến tranh Thế giới II. Sau chiến tranh, kỹ sư hàng không Marcel Dassault đã hăm hở tái thiết lại nền công nghiệp hàng không với một mẫu máy bay tiêm kích phản lực hoàn toàn do người Pháp thiết kế và chế tạo, thiết kế của mẫu máy bay này được phác thảo vào năm 1947. Chính phủ Pháp cũng đã hưởng ứng nhưng không mặn mà với kế hoạch phát triển, do đó hãng Dassault đã quyết định tự mình theo đuổi thiết kế và chế tạo mẫu máy bay mới.

Thiết kế chi tiết về mẫu máy bay mới, có tên gọi là M.D. (Marcel Dassault) 450, bắt đầu vào tháng 12-1947, và công việc chế tạo bắt đầu vào 7 tháng 4-1948 tại nhà máy của Dassault tại Saint-Cloud. Một hợp đồng với chính phủ Pháp về 3 nguyên mẫu đã được ký vào ngày 29 tháng 6-1948, và chiếc máy bay tiêm kích Ouragan đầu tiên đã bay vào ngày 28 tháng 2-1949, do phi công Constantin Rozanoff điều khiển. Nguyên mẫu M.D.450-01 thiếu thiết bị điều áp, vũ khí, và những thùng nhiên liệu đặc biệt ở đầu cánh. Nó trang bị một động cơ Rolls-Royce Nene 102 phản lực luồng khí ly tâm, lực đẩy 22.27 kN (2.270 kp/5.000 lbf), máy bay đạt vận tốc cực đại là 980 km/h (529 knots, 609 mph) và vận tốc leo lên ban đầu là 43 m/s (8.465 ft/min) trong những thử nghiệm hoạt động năm 1949. Nguyên mẫu thứ hai M.D.450-02 có thiết bị điều áp, vận tốc leo lên đạt 15.000 m (49.213 ft), trong khi nguyên mẫu thứ ba M.D.450-03 được thử nghiệm mang vũ khí với pháo 15 mm và sau đó là 30 mm.

Ouragan được thiết kế với nhiều điểm tương đồng với các mẫu máy bay tiêm kích của Mỹ trong giai đoạn này, nó có cách bố trí giống với Republic F-84 Thunderjet, trong khi cánh thẳng mỏng lại giống với Lockheed F-80 Shooting Star và F-84.

Vào tháng 7-1949, Không quân Pháp đã đặt mua 15 chiếc tiền sản xuất (sau đó giảm xuống còn 12 chiếc), những máy bay này dần dần được sử dụng để đánh giá các loại động cơ khác nhau (bao gồm cả SNECMA Atar), vũ khí trang bị, và tải trọng. Ngày 31 tháng 8-1950, Dassault nhận được đơn đặt hàng chế tạo 150 chiếc Ouragan, sau đó vài năm thêm khoảng 200 chiếc cũng đã được đặt chế tạo.

Lịch sử hoạt động

Chiếc Ouragan thành phẩm bay vào ngày 5 tháng 12-1951. Loại máy bay này bắt đầu phục vụ trong Không quân Pháp năm 1952, thay thế cho loại De Havilland Vampire của Anh. 50 chiếc Ouragan đầu tiên được chế tạo với động cơ Nene 102 có tên gọi M.D.450A; những chiếc khác được trang bị với động cơ Nene 104B do Hispano-Suiza chế tạo có tên gọi M.D.450B, động cơ Nene 104B nhỏ hơn so với Nene 102 và có lực đẩy yếu hơn. Thùng nhiên liệu ở đầu cánh được gắn thêm như một tiêu chuẩn trong cả hai phiên bản.

Các phi công lái Ouragan đều nhận xét nó dễ điều khiển, các giá súng và tên lửa ổn định, dù thân máy bay ngắn, máy bay có xu hướng nghiêng về bên trái khi đang quay tròn trong vòng tròn kín. Tuy nhiên trong 2 năm, Ouragan đã biểu diễn thành công trong đội bay biểu diễn la Patrouille de France.

Trong không quân Pháp, Dassault Mystère IV đã hoàn toàn thay thế Ouragan năm 1961.

nhỏ|trái|"Black Archers" Toofani (MD450 Ouragan) trưng bày tại Bảo tàng Không quân Ấn Độ, Palam, New Delhi

Ấn Độ

Ngày 25 tháng 6-1953, Ấn Độ đã đặt mua 71 chiếc Ouragan với động cơ nâng cấp Nene 105, các đợt giao hàng hầu hết đều thực hiện trong năm 1953. Những đơn đặt hàng bổ sung đã nâng tổng số máy bay lên 104 chiếc, đầu tiên chỉ có 71 chiếc được chế tạo mới hoàn toàn. Ấn Độ đặt tên cho những chiếc Ouragan của mình là Toofani (Hindi: Hurricane). Giống như ở Pháp, ở Ấn Độ nhưng chiếc Ouragan đã bị thay thế ở các đơn vị tiền tuyến bằng loại Mystère IVA năm 1958. Những chiếc Toofani của Ấn Độ đã tham gia chiến đấu vào năm 1961, khi chúng thực hiện các cuộc không kích tấn công Diu vốn là thuộc địa của Bồ Đào Nha ở bờ biển phía Tây của Ấn Độ.

Israel

Trái ngược với Pháp và Ấn Độ, Không quân Israel rất ưa thích Ouragan. Israel tìm kiếm các nhà cung cấp loại máy bay phản lực Gloster Meteor của Anh nhằm tăng cường lực lượng không quân của mình, ban đầu Israel tính toán nhằm mua Dassault Mystère IIC của Pháp và F-86 Sabre Mk.6 do Canada chế tạo. Vì những vấn đề phát triển với Mystère và một lệnh cấm vận của Canada đối với việc xuất khẩu Sabre, Israel đã đặt mua Mystère IVA, với một lô Ouragan dùng để lấp lỗ hổng trong lực lượng không quân. Năm 1955, không quân Israel đã có tối thiểu 75 chiếc, gồm có những chiếc mới sản xuất và những chiếc đã ngừng hoạt động trong không quân Pháp.

Những chiếc Ouragan của Israel tham chiến vào ngày 12 tháng 4-1956, và đã bắn hạ một chiếc Vampire của Ai Cập. Trong Cuộc khủng hoảng kênh Suez, trong một cuộc tấn công ngày 29 tháng 10-1956, Ouragan đã bắn hạ 4 chiếc Vampire khác. 2 tài liệu khác về cuộc chạm trán với máy bay tiêm kích Mikoyan-Gurevich MiG-15.'' phải|Dassault MD 450 Ouragan

Đặc điểm riêng

*Phi đoàn*: 1 Chiều dài: 10.73 m (35 ft 2 in) Sải cánh: 13.16 m (43 ft 2 in) Chiều cao: 4.14 m (13 ft 7 in) Diện tích cánh: 23.8 m² (256.2 ft²) Trọng lượng rỗng: 4 142 kg (9.132 lb) Trọng lượng cất cánh: 7 404 kg (16.323 lb) Trọng lượng cất cánh tối đa**: 7 900 kg (17.416 lb) *Động cơ: 1× động cơ phản lực nén ly tâm Rolls-Royce Nene 104B, 22.2 kN (4.990 lbf)

Hiệu suất bay

*Vận tốc cực đại*: 940 km/h (508 knots, 584 mph) (Mach 0.76) Vận tốc hành trình: 750 km/h (405 knots, 465 mph) Bán kính chiến đấu: 450 km (245 nm, 280 mi) Tầm bay tuần tiễu: 920 km (500 nm, 570 mi) Trần bay: 13 000 m (42.650 ft) Vận tốc lên cao: 38 m/s (7.480 ft/min) Lực nâng của cánh: n/a Lực đẩy/trọng lượng**: n/a

Vũ khí

4x pháo 20 mm Hispano-Suiza HS.404, 125 viên mỗi khẩu Giá treo dưới cánh cho 16x tên lửa 105 mm (4.1 in) Brandt T-10 hoặc 8 tên lửa và 2x thùng napalm 458 l (121 US gal) hoặc 2x quả bom 454 kg (1.000 lb)

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Dassault M.D.450 Ouragan** (tiếng Pháp của từ Hurricane (cuồng phong) là một loại máy bay cường kích phản lực của Pháp được sản xuất vào cuối thập niên 1940. Trong khi kỹ thuật áp dụng
**Dassault MD.452 Mystère** là một máy bay tiêm kích-ném bom của Pháp trong thập niên 1950. ## Phát triển Sau sự thành công của mẫu máy bay Dassault Ouragan, hãng Dassault đã tiếp tục công
**Dassault Super Mystère** là một mẫu máy bay tiêm kích-ném bom của Pháp chế tạo, nó là máy bay siêu thanh đầu tiên của Tây Âu được đưa vào chế tạo hàng loạt. ## Phát
Dassault-Breguet/Dornier [[Dassault/Dornier Alpha Jet|Alpha Jet thuộc tổ chức kỹ nghệ quốc phòng Anh QinetiQ]] **Dassault Aviation** là một hãng chế tạo máy bay quân sự, máy bay dân dụng nội địa và thương mại của
thế=Một phi công của Không quân Hoa Kỳ điều khiển một máy bay F-35A Lightning II được giao cho Phi đội Tiêm kích 58, Phi đoàn Tiêm kích 33 vào vị trí để tiếp nhiên
**Yakovlev Yak-25** là một máy bay quân sự của Liên Xô, một máy bay tiêm kích đánh chặn động cơ phản lực đầu tiên được thiết kế bởi OKB Yakovlev. Tên gọi Yak-25 sau này
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1949: ## Các sự kiện * Aerolíneas Argentinas thành lập. * Không quân Hoàng gia Jordan khi Không quân Liên
**HMS _Zodiac_ (R54/D54)** là một tàu khu trục lớp Z được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hoạt động
**HMS _Zealous_ (R39)** là một tàu khu trục lớp Z được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo trong Chương trình Khẩn cấp Chiến tranh của Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là
__NOTOC__ Danh sách máy bay :A B C-D E-H I-M N-S T-Z ## C ### CAB * CAB Minicab * CAB Supercab ### CAIC xem Chengdu ### Call Aircraft Company * CallAir S-1 * CallAir
[[Messerschmitt Me 262|Me 262, loại máy bay tiêm kích phản lực đưa vào chiến đấu đầu tiên trên thế giới bởi Đức Quốc xã.]] Máy bay được phân loại thành **tiêm kích phản lực thế
**Chiến tranh sáu ngày** (tiếng Ả Rập: حرب الأيام الستة, _ħarb al‑ayyam as‑sitta_; tiếng Hebrew: מלחמת ששת הימים, _Milhemet Sheshet Ha‑Yamim_), cũng gọi là **Chiến tranh Ả Rập-Israel**, **Chiến tranh Ả Rập-Israel thứ ba**, **an‑Naksah