✨Republic F-105 Thunderchief
Republic F-105 Thunderchief (Thần sấm), thường được các đội bay gọi là "Thud", là một kiểu máy bay tiêm kích-ném bom siêu thanh được Không quân Hoa Kỳ sử dụng. Chiếc F-105 đạt được tốc độ Mach 2 phải chịu đựng gánh nặng tấn công ném bom bên trên Bắc Việt Nam trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam. Một phiên bản hai chỗ ngồi Wild Weasel sau đó được sử dụng trong vai trò chuyên biệt SEAD áp chế các vị trí tên lửa đất-đối-không đối phương.
Như là kiểu tiếp nối cho chiếc F-100 đạt được tốc độ Mach 1, chiếc F-105 cũng được trang bị tên lửa và một khẩu pháo; tuy nhiên, thiết kế của nó được dành cho nhiệm vụ xâm nhập tốc độ cao ở tầm thấp mang theo một bom nguyên tử duy nhất bên trong thân. Bay chuyến bay đầu tiên năm 1955, chiếc Thunderchief được đưa vào hoạt động từ năm 1958. Là kiểu máy bay chiến đấu một động cơ lớn nhất mà Không quân Hoa Kỳ từng có, chiếc máy bay F-105 một chỗ ngồi phù hợp để mang một lượng bom mảnh lớn hơn chiếc máy bay ném bom chiến lược mười người bốn động cơ thời Thế Chiến II. Chiếc F-105 được ghi nhớ nhiều nhất như là máy bay tấn công ném bom chủ yếu tại Bắc Việt Nam trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Việt Nam. Đã có hơn 20.000 phi vụ được Thunderchief thực hiện, với 382 máy bay bị mất (gần phân nửa tổng số 833 chiếc được chế tạo) bao gồm 62 thiệt hại khi vận hành. Mặc dù nó không có sự nhanh nhẹn như những chiếc máy bay tiêm kích MiG nhỏ hơn, F-105 của Không lực Mỹ thể hiện hiệu quả của các khẩu pháo, và được ghi nhận đã bắn rơi 27 máy bay địch.
Trong cuộc chiến, các phiên bản hai chỗ F-105F và F-105G Wild Weasel đã trở thành những máy bay chuyên dụng đầu tiên làm nền tảng cho các phi vụ SEAD (Suppression of Enemy Air Defenses: áp chế phòng không đối phương), chiến đấu chống lại các tên lửa đất-đối-không S-75 Dvina (SA-2 Guideline) do Xô Viết chế tạo. Hai phi công Wild Weasel đã từng được tặng thưởng Huân chương Danh Dự khi tấn công các vị trí tên lửa, và một chiếc đã bắn rơi hai chiếc MiG-17 trong cùng ngày đó. Các phi vụ nguy hiểm thường đòi hỏi chúng phải "vào trước, ra sau" để áp chế mối nguy cơ của phòng không đối phương trước khi các máy bay tấn công bay đến, và tiếp tục duy trì cho đến khi các máy bay tấn công rời khỏi chiến trường.
Cho dù chiếc F-105 cân nặng đến 22.680 kg (50.000 lb), chiếc máy bay có thể vượt qua tốc độ âm thanh ở độ cao mặt biển và đạt đến Mach 2 ở tầm cao. Nó có thể mang đến 6.700 kg (14.000 lb) bom và tên lửa. Chiếc Thunderchief thay thế trong vai trò máy bay tấn công tại Bắc Việt Nam bởi cả hai chiếc F-4 Phantom II và chiếc máy bay F-111 có hình dạng cánh thay đổi (cánh cụp cánh xòe). Tuy nhiên, phiên bản "Wild Weasel" vẫn tiếp tục được sử dụng cho đến năm 1984 khi nó được thay thế bởi một phiên bản chuyên dụng F-4G "Wild Weasel V".
Thiết kế và phát triển
Republic Aviation khởi sự thiết kế chiếc Thunderchief như là một đề án nội bộ để thay thế chiếc F-84F Thunderflash.
Rất hăng hái vào lúc đầu, Không quân Hoa Kỳ đã trao cho Republic hợp đồng chế tạo 199 chiếc máy bay vào tháng 9 năm 1952. Tuy nhiên, đến tháng 3 năm 1953 Không quân giảm hợp đồng xuống còn 37 chiếc máy bay tiêm kích ném bom và chín chiếc máy bay trinh sát chiến thuật, viện dẫn sắp đến lúc kết thúc Chiến tranh Triều Tiên. Chiếc thử nghiệm tiền sản xuất YF-105B bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 26 tháng 5 năm 1956, và đến ngày 19 tháng 6 chiếc máy bay được chính thức đặt tên là Thunderchief, tiếp nối cách đặt tên gọi của Republic Aviation trong chuỗi những chiếc P-47 Thunderbolt, F-84 Thunderjet, và F-84F Thunderstreak/RF-84 Thunderflash. Có tổng cộng 833 chiếc F-105 đã được chế tạo khi việc sản xuất kế thúc vào năm 1964.
Lịch sử hoạt động
phải|nhỏ|Chiếc Republic F-105D-30-RE đang bay với toàn bộ tải trọng bom. Chiếc F-105B được đưa vào hoạt động đầu tiên trong Không quân Hoa Kỳ cùng Phi đội Tiêm kích Chiến thuật 335 thuộc Bộ chỉ huy Không quân Chiến thuật vào ngày 27 tháng 5 năm 1958. Việc thiếu hụt phụ tùng khiến cho toàn đội máy bay F-105B phải tạm thời ngừng bay một lúc ngắn vào năm 1960. Như là một việc náo trước cho vai trò Wild Weasel sau này, phi vụ chiến đấu đầu tiên của chiếc F-105D liên quan đến việc tấn công một vị trí pháo phòng không tại Cánh đồng Chum. Những chiếc F-4 Phantom thường được giao nhiệm vụ hộ tống bảo vệ những chiếc Thud khỏi những chiếc máy bay tiêm kích MiG, nhưng chúng lại không có khẩu pháo gắn trong và bộ ngắm pháo như trên chiếc Thunderchief mãi cho đến cuối cuộc chiến. phải|nhỏ|Chiếc Republic F-105G thuộc Phi đội 333, Phi đoàn Tiêm kích Chiến thuật 355, tháng 8 năm 1968 tại Việt Nam. Dựa trên kinh nghiệm chiến đấu, chiếc F-105D được nâng cấp với một kiểu ghế phóng tốt hơn, angten radar dẫn đường và cảnh báo đuôi (RHAW), tăng cường vỏ giáp cho phi công và bảo vệ hệ thống thủy lực vốn tỏ ra khá mong manh đối với tổn hại trong chiến đấu. Thời tiết nóng và ẩm của Đông Nam Á cũng tạo ra những sự cố cho hệ thống điện tử phức tạp, một vấn đề hầu như xảy ra cho tất cả các kiểu máy bay tiên tiến của Mỹ trong cuộc chiến này. Nhiệt độ nóng bên ngoài cũng làm trầm trọng thêm xu hướng cháy động cơ của chiếc F-105 do không làm mát đủ cho bộ đốt sau. Đa số những chiếc máy bay tại chiến trường Việt Nam sau đó được cải biến với một môi hút gió để làm giảm nhẹ sự cố này.
Tỉ lệ tổn thất cao đến mức Không quân Hoa Kỳ lâm vào tình trạng thiếu hụt máy bay sẵn sàng chiến đấu. Có tổng cộng 382 máy bay bị mất tại Đông Nam Á, trong đó có 320 chiếc bị mất trong chiến đấu. Đa số các tổn thất là do hỏa lực của đối phương từ mặt đất. Trong tổng số 610 chiếc phiên bản F-105D một chỗ ngồi được chế tạo, có 283 chiếc bị bắn rơi và 52 chiếc mất do tai nạn. Trong số 143 chiếc phiên bản F-105F/G hai chỗ ngồi, 37 chiếc bị bắn rơi và mười chiếc mất do tai nạn (một máy bay can thiệp ban đêm "Ryan's Raiders" và một máy bay gây nhiễu "Combat Martin" không có sĩ quan hệ thống vũ khí (WSO) bị mất trong chiến đấu, 45 chiếc bị mất kia là máy bay "Wild Weasel"). Một số chiếc máy bay loại này sau đó được cải biến theo tiêu chuẩn Wild Weasel III.
Những vấn đề tồn tại cùng hệ thống radar AN/RNA-85 LORAN đã đưa đến 30 chiếc F-105D được nâng cấp lên hệ thống AN/RNA-92 trong một sống lưng dài. Được biết đến dưới tên gọi máy bay Thunderstick II, những chiếc F-105 này có khả năng ném bom với bán kính vòng tròn sai số (CAP: circular error probable) chỉ có 15 m (50 ft) từ độ cao 4.570 m (15.000 ft). Cho dù chiếc máy bay đầu tiên loại này bay chuyến bay đầu tiên vào năm 1969, chúng chưa bao giờ được bố trí đến Việt Nam.
Nguyên phi công lái F-86 Sabre Jerry Noel Hoblit từng nhớ lại kích thước to lớn đáng sợ của chiếc F-105 sau khi ông được xem tận mắt chiếc máy bay lần đầu tiên; thậm chí ông ta còn không thể chạm đến cửa hút gió động cơ cho dù đã nhảy lên sau khi chạy lấy đà.
Các phiên bản
;YF-105A :Hai chiếc nguyên mẫu. ;YF-105B :Bốn chiếc phiên bản tiền sản xuất. ;F-105B :Phiên bản sản xuất hàng loạt đầu tiên. Có 75 chiếc được chế tạo. ;JF-105B :Máy bay thử nghiệm được cải biến từ khung máy bay RF-105B. Có ba chiếc được cải biến. ;RF-105B :Phiên bản trinh sát hình ảnh được đề nghị từ phiên bản F-105B; không được chế tạo. ;F-105C :Phiên bản huấn luyện có bộ điều khiển kép được đề nghị; bị hủy bỏ vào năm 1957, không được chế tạo. ;F-105D :Phiên bản sản xuất cuối cùng, có khả năng hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết nhờ thiết bị điện tử tiên tiến, bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 9 tháng 6 năm 1959. Có 610 chiếc được chế tạo. ;RF-105D :Phiên bản trinh sát hình ảnh được đề nghị từ phiên bản F-105D; không được chế tạo. ;F-105E :Phiên bản huấn luyện có bộ điều khiển kép được đề nghị từ phiên bản F-105D; bị hủy bỏ vào năm 1959, không được chế tạo. ;F-105F :Phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi của kiểu F-105D, có khả năng chiến đấu hoàn toàn, bay chuyến bay đầu tiên vào ngày 11 tháng 6 năm 1963. Có 143 chiếc được chế tạo. ;EF-105F :Phiên bản SEAD/Wild Weasel ban đầu. Có 86 chiếc được chế tạo. ;F-105G :Phiên bản Wild Weasel SEAD hai chỗ ngồi. Có 61 chiếc được cải biến từ kiểu EF-105F và F-105F.
Các nước sử dụng
; *Được sử dụng bởi Không quân Hoa Kỳ
Đặc điểm kỹ thuật (F-105D)
phải|nhỏ|Republic F-105D Thunderchief tại [[Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ.]] Nguồn: The Great Book of Fighters
Đặc tính chung
- Đội bay: 01 người(về sau là 2 người)
- Chiều dài: 19,63 m (64 ft 5 in)
- Sải cánh: 10,65 m (34 ft 11 in)
- Chiều cao: 5,99 m (19 ft 8 in)
- Diện tích bề mặt cánh: 35,76 m² (385 ft²)
- Kiểu cánh: NACA 65A005.5 root, NACA 65A003.7 tip
- Diện tích cản: 0,62 m² (6,65 ft²)
- Hệ số nâng/lực cản: 0,0173
- Tỉ lệ dài/rộng cánh: 3,16
- Lực nâng của cánh: 452 kg/m² (93 lb/ft²)
- Trọng lượng không tải: 12.470 kg (27.500 lb)
- Trọng lượng có tải: 16.165 kg (35.637 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa: 23.834 kg (52.546 lb)
- Tải trọng vũ khí: 6.700 kg (14.000 lb)
- Động cơ: 1 x động cơ Pratt & Whitney J75-P-19W turbo phản lực có đốt sau và phun nước, lực đẩy 26.500 lbf (118 kN)
Đặc tính bay
- Tốc độ lớn nhất: 2.208 km/h (Mach 2,08, 1.372 mph) ở độ cao 11.000 m (36.000 ft)
- Tầm bay tối đa: 3.550 km (1.920 nm, 2.210 mi)
- Bán kính chiến đấu: 1.250 km (680 nm, 780 mi)
- Trần bay: 14.800 m (48.500 ft)
- Tốc độ lên cao: 195 m/s (38.500 ft/min); mất 1,7 phút để lên cao 11.000 m (35.000 ft)
- Tỉ lệ lực đẩy/khối lượng: 0,74
- Tỉ lệ lực nâng/lực cản: 10,4
Vũ khí
- 1 x pháo M61 Vulcan 20 mm (0,787 in), 1.028 viên đạn
- Cho đến 6.350 kg (14.000 lb) vũ khí trong khoang bom và trên năm đế cánh, bao gồm: bom thông thường và bom hạt nhân tên lửa không-đối-không AIM-9 Sidewinder ** tên lửa không-đối-đất AGM-12 Bullpup
Thiết bị điện tử
- Hệ thống kiểm soát hỏa lực AN/ASG-19 Thunderstick
- radar NASARR R-14A
- radar AN/RNA-85 LORAN (AN/RNA-92 trên những máy bay cải tiến theo chuẩn Thunderstick II)