✨Phiên Chōshū

Phiên Chōshū

thumb|right|Bản đồ các tỉnh của Nhật Bản (1868) với tỉnh Nagato được đánh dấu , còn gọi là , là một phiên (han) của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản trong thời Edo từ năm 1600 đến năm 1871.

Phiên Chōshū đóng tại Thành Hagi ở Nagato, nay thuộc thành phố Hagi, nằm trong vùng Chūgoku của đảo Honshu. Phiên Chōshū do tozama daimyō thuộc dòng tộc Mōri trị vì, vốn có các nhánh cũng cai trị các phiên Chōfu và Kiyosue lân cận, và ước định theo hệ thống Kokudaka với giá trị cao nhất là 369.000 koku. Phiên Chōshū là phiên chống đối Mạc phủ Tokugawa nổi bật nhất và đã thành lập Liên minh Satchō với cựu thù là Phiên Satsuma dưới thời Minh Trị Duy tân, trở thành thế lực chính yếu giúp gầy dựng Đế quốc Nhật Bản và thể chế phiên phiệt thời Minh Trị. Phiên Chōshū đã bị giải thể khi chính phủ Minh Trị bãi bỏ hệ thống phiên bang vào năm 1871 và lãnh thổ của phiên này được sáp nhập vào huyện Yamaguchi.

Lịch sử

Các đời phiên chủ Chōshū đều là hậu duệ của lãnh chúa vĩ đại thời Sengoku Mōri Motonari. Motonari đã có thể mở rộng quyền lực của mình ra toàn bộ vùng Chūgoku của Nhật Bản và chiếm đóng một lãnh thổ trị giá 1.200.000 koku. Sau khi ông qua đời, cháu trai và người thừa kế của ông là Mōri Terumoto lên làm daimyō và thực hiện chiến lược liên minh với Toyotomi Hideyoshi. Điều này về sau được chứng minh là một sai lầm lớn. Sau cái chết của Hideyoshi, daimyō Tokugawa Ieyasu đã thách thức quyền lực Toyotomi và giao chiến với cố vấn đáng tin cậy của Hideyoshi là Ishida Mitsunari trong trận Sekigahara. Mōri Terumoto là đồng minh mạnh nhất của Toyotomi và được hội đồng những người trung thành với Toyotomi bầu làm minh chủ chính thức của đại quân Toyotomi. Tuy nhiên, phe Toyotomi đã thua trận do một số yếu tố liên quan đến Mōri Terumoto:

  • Em họ Kikkawa Hiroie của ông đã bí mật thỏa thuận với Tokugawa Ieyasu dẫn đến việc 15.000 binh lính Mōri không chủ động trong trận chiến.
  • Cậu em họ nuôi là Kobayakawa Hideaki và 15.600 binh lính dưới quyền mình đã phản bội Ishida và gia nhập phe Tokugawa.
  • Sau khi được sự cam đoan từ Tokugawa Ieyasu, Terumoto đã từ bỏ tòa thành Osaka ghê gớm mà không cần chiến đấu.

Mặc dù không còn hoạt động gì nữa, gia tộc Mōri đã bị chuyển khỏi quê hương của tổ tiên ở xứ Aki sang xứ Nagato (còn gọi là Chōshū), và gia sản của họ đã giảm đáng kể từ 1.200.000 xuống còn 369.000 koku.

Đây được coi là một hành động phản bội lớn đối với gia tộc Mōri, và Chōshū sau đó trở thành điểm nóng của những hoạt động chống đối nhà Tokugawa. Nguồn gốc sự việc thể hiện rõ trong truyền thống họp mặt đầu năm của gia tộc này. Hàng năm trong cuộc họp, các tộc trưởng và phiên sĩ sẽ hỏi daimyō rằng liệu thời điểm lật đổ Mạc phủ đã đến chưa, daimyō sẽ trả lời: "Vẫn chưa được, Mạc phủ vẫn còn quá mạnh".

Giấc mơ này cuối cùng đã thành hiện thực vào khoảng 260 năm sau, khi phiên này hợp lực với Phiên Satsuma và giới công khanh có thiện cảm hòng mưu toan lật đổ Mạc phủ Tokugawa. Năm 1865, phiên này mua được chiếc tàu chiến Union (ja) từ Glover and Co., một cơ quan của Jardine Matheson lập ra tại Nagasaki, nhân danh phiên Satsuma. Họ đã lãnh đạo cuộc chiến chống lại quân đội Mạc phủ của cựu Tướng quân, bao gồm Liên minh các phiên vùng Đông Bắc, Aizu và Cộng hòa Ezo trong suốt chiến tranh Boshin. Lực lượng quân sự của các phiên này từ năm 1867 đến năm 1869 cũng đã góp phần hình thành nền tảng cho Lục quân Đế quốc Nhật Bản. Nhờ liên minh này mà cựu phiên sĩ Chōshū và Satsuma có được sự nổi bật về chính trị và xã hội dưới thời Minh Trị và thậm chí cả thời Taishō.

Kinh tế

thumb|[[Kiheitai của phiên Chōshū giao chiến với quân Mạc phủ trong cuộc chinh phạt Chōshū lần thứ hai và chiến tranh Boshin.]] Việc giảm bớt ban đầu 1,2 triệu xuống còn 369.000 koku đã dẫn đến sự thiếu hụt lớn về chi phí quân sự và xây dựng cơ sở hạ tầng, mặc dù phiên này vẫn là phiên lớn thứ bảy ở Nhật Bản bên ngoài các phiên do Mạc phủ kiểm soát. Để đưa tài chính của phiên thoát khỏi nợ nần, các chính sách nghiêm ngặt đã được thực thi đối với những gia thần:

  • Tất cả các trang viên của gia thần đều bị cắt giảm đáng kể.
  • Một số gia thần được phiên trả bằng đất đai thì nay lấy gạo để trả thay.
  • Một số gia thần đã bị sa thải và được phiên khuyến khích tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp.

Trước đây, do bị đánh thuế cao, nông dân đã bí mật phát triển các nông trang ở sâu trong núi như một nguồn thực phẩm riêng. Một cuộc khảo sát đất đai mới đã được giới lãnh đạo thực hiện trong phiên mà qua đó đã phát hiện và đánh thuế nhiều nông trang ẩn này. Phiên này cũng bắt đầu áp dụng chính sách nghiêm ngặt đối với thương mại.

Các đạo luật cũng được thông qua theo đó việc buôn bán có lãi của "bốn món hàng" dưới sự kiểm soát của phiên: giấy, gạo, muối và sáp. Một số lợi nhuận và một lượng lớn doanh thu thuế từ giao dịch này đã được chuyển vào ngân khố trong phiên.

Những chính sách này đã củng cố đáng kể tài chính của phiên và cho phép daimyō kiểm soát hiệu quả hơn lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, những chính sách này đã khiến nông dân tức giận cũng như các samurai phải di dời, dẫn đến các cuộc bạo loạn thường xuyên.

Chính trị

thumb|right|Chân dung Phiên chủ Mōri Takachika thumbnail|[[Thành Hagi, nơi ngự trị của các đời phiên chủ Chōshū dòng tộc Mōri]] Thủ phủ của phiên này là thị trấn dưới chân thành Hagi, là nguồn gốc của cái tên thay thế phiên Hagi (萩藩) của Chōshū.

Phiên này vẫn nằm dưới sự thống trị của dòng tộc Mōri trong suốt thời kỳ Edo. Bởi vì Mạc phủ thường xuyên tịch thu các lãnh địa mà các daimyō không để lại người thừa kế cho nên phiên chủ Mōri đã tạo ra bốn phiên phụ thuộc do các nhánh của gia tộc này cai trị:

  • Phiên Iwakuni: 60.000 koku, do hậu duệ của Kikkawa Hiroie cai trị.
  • Phiên Chōfū: 50.000 koku, do hậu duệ của Mōri Hidemoto cai trị.
  • Phiên Tokuyama: 40.000 koku, do hậu duệ của Mōri Naritaka cai trị.
  • Phiên Kiyosue: 10.000 koku, do hậu duệ của Mōri Mototomo cai trị.

Trong suốt thời kỳ Edo, nhánh chính đã chết yểu vào năm 1707, sau đó những người thừa kế được nhận làm con nuôi từ nhánh Chōfu, nhánh này cũng đã tuyệt hậu vào năm 1751. Gia tộc này về sau vẫn tiếp tục sinh sôi nảy nở thông qua nhánh Kiyosue.

Phiên chủ Mōri, cũng như nhiều người đồng cấp khác trên khắp Nhật Bản được sự trợ giúp của một nhóm trọng thần trong phiên mình gọi là gia lão. Có hai loại gia lão ở Chōshū: gia lão cha truyền con nối (những gia đình giữ được phẩm trật vĩnh viễn) và "gia lão trọn đời" là phẩm trật được cấp cho một cá nhân nhưng con cái không được quyền thừa kế.

Gia lão cha truyền con nối hoặc là thành viên của các nhánh nhỏ của thuộc dòng tộc Mōri, hoặc thành viên của các gia tộc có liên quan như Shishido và Fukuhara, hoặc hậu duệ của các tướng lĩnh và cố vấn đáng tin cậy nhất của Mōri Motonari như Mazuda, Kuchiba và Kunishi. Gia lão trọn đời là những samurai cấp trung trở xuống thể hiện tài năng tuyệt vời về kinh tế hoặc chính trị và được phiên chủ thăng cấp lên làm gia lão. Một trong những người như vậy là nhà cải cách vĩ đại Murata Seifu.

Danh sách phiên chủ Chōshū

  • Tập tin:Ichimonjimitsuboshi.svg Gia tộc Mōri (Tozama, 369.000 koku), 1600–1871

Gia phả đơn giản hóa của dòng tộc Mōri chính (Phiên chủ Chōshū)

Mōri Motonari (1497–1571) Takamoto (1523–1563) Hình:Simple silver crown.svg I. Terumoto, Phiên chủ Chōshū đời thứ 1 (công nhận 1600) (1553–1625; tại vị 1600–1623) **Hình:Simple silver crown.svg II. Hidenari, Phiên chủ Chōshū đời thứ 2 (1595–1651; tại vị 1623–1651) *Hình:Simple silver crown.svg III. Tsunahiro, Phiên chủ Chōshū đời thứ 3 (1639–1689; tại vị 1651–1682) ****Hình:Simple silver crown.svg IV. Yoshinari, Phiên chủ Chōshū đời thứ 4 (1668–1694; tại vị 1682–1694). ** Hình:Simple silver crown.svg V. Yoshihiro, Phiên chủ Chōshū đời thứ 5 (1673–1707; tại vị 1694–1707) ***Naritaka, Phiên chủ Tokuyama đời thứ 1 (1602–1679) Mototsugu, Phiên chủ Tokuyama đời thứ 3 (1667–1719) **Hirotoyo, Phiên chủ Tokuyama đời thứ 5 (1705–1773) *Nariyoshi, Phiên chủ Tokuyama đời thứ 7 (1750–1828) ****Hiroshige, Phiên chủ Tokuyama đời thứ 8 (1777–1866) ***Hình:Simple silver crown.svg XV. Motonori, Phiên chủ Chōshū đời thứ 15, Thân vương đời thứ 1 (1839–1896; r. 1869, Huyện trưởng Hagi 1869–1871, tộc trưởng 1871–1896, Thân vương đời thứ 1 mới lập ra năm 1884) ****Motoaki, tộc trưởng đời thứ 29, Thân vương đời thứ 2 (1865–1938; tộc trưởng đời thứ 29 và Thân vương đời thứ 2 1896–1938) *Motomichi, tộc trưởng đời thứ 30, Thân vương đời thứ 3 (1903–1976; tộc trưởng đời thứ 30 1938–1976, Thân vương đời thứ 3 đến năm 1947) **Motoyoshi, tộc trưởng đời thứ 31* (1930– ; tộc trưởng đời thứ 31 1976–) Motoei (born 1967) Motokiyo (1551–1597) *Hidemoto, Phiên chủ Chōfū đời thứ 1 (1579–1650) ***Mitsuhiro, Phiên chủ Chōfū đời thứ 2 (1616–1653) Tsunamoto, Phiên chủ Chōfū đời thứ 3 (1650–1709) **Hình:Simple silver crown.svg VI. Yoshimoto, Phiên chủ Chōshū đời thứ 6 (1677–1731; tại vị 1707–1731) * Hình:Simple silver crown.svg VII. Munehiro, Phiên chủ Chōshū đời thứ 7 (1715–1751; tại vị 1731–1751) **Mototomo, Phiên chủ Kiyosue đời thứ 1 (1631–1683) *Masahiro, Phiên chủ Chōfū đời thứ 6, Phiên chủ Kiyosue đời thứ 2 (1675–1729) **Hình:Simple silver crown.svg VIII. Shigetaka, Phiên chủ Chōshū đời thứ 8 (1725–1789; tại vị 1751–1782) *Hình:Simple silver crown.svg IX. Haruchika, Phiên chủ Chōshū đời thứ 9 (1754–1791; tại vị 1782–1791) ****Hình:Simple silver crown.svg X. Narifusa, Phiên chủ Chōshū đời thứ 10 (1779–1809; tại vị 1791–1809) ****Hình:Simple silver crown.svg XI. Narihiro, Phiên chủ Chōshū đời thứ 11 (1784–1836; tại vị 1809–1824) *** Hình:Simple silver crown.svg XIII. Naritō, Phiên chủ Chōshū đời thứ 13 (1815–1836; tại vị 1836). *Chikaaki (1766–1800) ****Hình:Simple silver crown.svg XII. Narimoto, Phiên chủ Chōshū đời thứ 12 (1794–1836; tại vị 1824–1836) *** Hình:Simple silver crown.svg XIV. Takachika, Phiên chủ Chōshū đời thứ 14 (1819–1871; tại vị 1836–1869)

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|right|Bản đồ các tỉnh của Nhật Bản (1868) với tỉnh Nagato được đánh dấu , còn gọi là , là một phiên (_han_) của Mạc phủ Tokugawa tại Nhật Bản trong thời Edo từ năm
là một samurai từ phiên Chōshū có đóng góp đáng kể cho công cuộc Minh Trị Duy tân. Ông từng sử dụng một số bí danh để che giấu các hoạt động lật đổ Mạc
(năm 1840 – ngày 20 tháng 8 năm 1864) là một samurai của phiên Chōshū hoạt động trong thời kỳ Bakumatsu và là nhân vật chủ chốt trong phong trào _Tôn vương Nhương di_. ## Tiểu
**Cuộc chinh phạt Chōshū lần thứ hai** (), còn gọi là **Chiến tranh Mùa hè**, là một cuộc viễn chinh quân sự dưới sự thống lĩnh của Mạc phủ Tokugawa nhằm thảo phạt phiên Chōshū
**Cuộc chinh phạt Chōshū lần thứ nhất** () là một cuộc viễn chinh quân sự của Mạc phủ Tokugawa nhằm thảo phạt phiên Chōshū để trả thù cho vụ tấn công vào Hoàng cung ở
Sự phân chia Nhật Bản vào năm [[1855, 28 năm trước cuộc phế phiên, lập huyện.]] **Bỏ phiên, lập huyện** (廃藩置県, _haihan-chiken_, _Phế phiên, trí huyện_) là một đạo luật vào năm 1871 của chính
là một phiên của Mạc phủ Tokugawa trong thời kỳ Edo từ năm 1602 đến năm 1871. Phiên Satsuma sở hữu hai tỉnh là Satsuma, Ōsumi, hầu hết các quận và huyện của tỉnh Hyūga
**Phiên phiệt** (藩閥, はんばつ, _hanbatsu_) hay **Chính thể đầu sỏ thời Minh Trị**, với các nhà sử học là tầng lớp nắm quyền mới vào thời kỳ Minh Trị của Nhật Bản, là một nhóm
right|thumb|Bản đồ Nhật Bản năm 1789 do [[Daikokuya Kōdayū vẽ.]] Đây là danh sách không đầy đủ của các _phiên_ (Han) chính thời Tokugawa. Phiên được hình thành dựa trên cơ sở hiệu quả của
là một samurai sống vào thời Bakumatsu và là cộng sự thân cận của Sakamoto Ryōma trong phong trào lật đổ Mạc phủ Tokugawa, được xem là chí sĩ có đóng góp lớn cho công
là một samurai phiên Aizu thời Bakumatsu, về sau trở thành một nhà giáo dục và chính trị gia dưới thời Minh Trị. ## Tiểu sử Yamamoto sinh trưởng tại Aizu, ông thường tự nhận
Hình nhân mặc kiểu đồng phục của Shinsengumi (còn được gọi là _Tân Đảng_) là lực lượng cảnh sát được thành lập để trấn áp các thế lực chống đối Mạc Phủ Tokugawa, và giữ
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Trận chiến eo biển Shimonoseki** (tiếng Nhật:下関海戦, _Shimonoseki Kaisen_, _Hạ Quan hải chiến_) là một trận hải chiến diễn ra vào ngày 16 tháng 7 năm 1863, do tàu chiến của Hải quân Mỹ tiến
là một loạt các cuộc pháo kích chống lại phiên Chōshū vào năm 1863 và 1864, nhằm giành quyền kiểm soát eo biển Shimonoseki bởi hạm đội liên hợp hải quân bốn nước Anh, Pháp,
là vị Thiên hoàng thứ 121 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông ở ngôi từ ngày 10 tháng 3 năm 1846 tới ngày 30 tháng 1 năm 1867. Tên thật
thumb|Samurai của phiên Satsuma, thành viên của Liên minh Satchō, tham chiến bên phe triều đình trong [[Chiến tranh Boshin. Ảnh chụp của Felice Beato.]] hoặc là một liên minh quân sự giữa hai phiên
phải|Kido Takayoshi (11 tháng 8 năm 1833 – 26 tháng 5 năm 1877), còn được gọi là **Kido Kōin** là một chính khách Nhật Bản dưới thời Mạc Mạt và Minh Trị Duy Tân. Ông
là một nhà lãnh đạo và nhà lý luận quân sự thời Bakumatsu. Ông là "Cha đẻ" của Lục quân Đế quốc Nhật Bản, khởi động một lực lượng quân sự hiện đại gần giống
diễn ra giữa quân đội bảo hoàng và Mạc phủ Tokugawa trong cuộc Chiến tranh Boshin ở Nhật Bản. Trận đánh bắt đầu vào ngày 27 tháng 1 năm 1868 (3 tháng 1 âm lịch),
**Tokugawa Yoshinobu** (徳川 慶喜 _ Đức Xuyên Khánh Hỉ_), còn gọi là **Tokugawa Keiki**, sinh ngày 28 tháng 10 năm 1837, mất ngày 22 tháng 11 năm 1913) là Tướng quân thứ 15 và là
là một samurai sống vào cuối thời Edo. Vốn là kiếm sĩ bậc thầy, ông được thiên hạ xưng tụng là một trong bốn sát thủ nổi tiếng nhất của thời kỳ Bakumatsu. Chiêu kiếm
, còn gọi là **Matsudaira Keiei**, hay được biết đến với cái tên là một _daimyō_ of cuối thời Edo. Ông là người đứng đầu phiên Fukui tỉnh Echizen. Ông được coi là một trong
là một samurai sống vào thời Bakumatsu và thời Minh Trị. Ông là _daimyō_ thứ 9 của phiên Aizu và _Kyōto Shugoshoku_ (Thủ hộ Kyoto). Trong chiến tranh Boshin, đích thân ông lãnh đạo cả
, còn gọi là , là một cuộc nổi dậy của phiên Chōshū chống lại Mạc phủ Tokugawa diễn ra vào ngày 20 tháng 8 [âm lịch: ngày 19 tháng 7] năm 1864, gần Hoàng
là _daimyō_ thứ 13 của phiên Chōshū. Về sau ông được phép sử dụng một chữ từ tên của Tướng quân Tokugawa Ieyoshi và đổi tên thành **Yoshichika** (慶親). Phiên trấn của ông là kẻ
là vị Thiên hoàng thứ 120 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Triều đại ông kéo dài từ năm 1817 đến 1846. ## Phả hệ Trước khi lên ngôi hoàng đế,
(16 tháng 10 năm 1841 – 26 tháng 10 năm 1909, cũng được gọi là **Hirofumi**/**Hakubun** và **Shunsuke** thời trẻ) là một chính khách người Nhật, Toàn quyền Triều Tiên, bốn lần là Thủ tướng
**Tôn hoàng nhương di** hay , còn gọi là **Tôn vương Nhương di** (尊王攘夷, tiếng Nhật: そんのうじょうい) là tư tưởng chính trị và cao trào xã hội phổ biến ở Nhật Bản theo khuôn mẫu
**Tỏa Quốc** (tiếng Nhật: 鎖国, _Sakoku_; Hán-Việt: Tỏa quốc, nghĩa là "khóa đất nước lại") là chính sách đối ngoại của Nhật Bản trong hơn hai thế kỷ, từ giữa thế kỷ 17 đến thế
Công tước (_kōshaku_) , còn gọi là ****, là một samurai và chính trị gia cuối thời Bakumatsu và đầu thời Minh Trị. Hisamitsu là người nắm quyền hành tối cao trên thực tế của
(4 tháng 1 năm 1848 - 10 tháng 10 năm 1913) là một tướng lĩnh Lục quân Đế quốc Nhật Bản, chính khách và từng ba lần giữ chức thủ tướng Nhật Bản từ năm
**Trận Aizu** (tiếng Nhật: 会津戦争, "Trận Hội Tân") diễn ra ở phía Bắc Nhật Bản vào mùa thu năm 1868, và là một phần của Chiến tranh Boshin. Aizu được biết đến với khả năng
**Hyakuman Isshin** (Hán tự: 百万一心, cách đọc Hán Việt: bách vạn nhất tâm) là bốn chữ Hán được khắc trên tấm bia đá được chôn thay cho người khi Mōri Motonari mở rộng thành Yoshidakōri
Ở Nhật Bản, **Duy Tân tam kiệt** là những người đóng vai trò quan trọng trong cuộc Minh Trị Duy Tân. Họ được gọi là trong tiếng Nhật. Duy Tân Tam Kiệt bao gồm: *
**Trận Ueno** (tiếng Nhật:上野戦争) (Trận Thượng Dã) là một trận đánh trong Chiến tranh Boshin, diễn ra ngày 4 tháng 7 năm 1868 (15 tháng 5 âm lịch), giữa binh lính Shōgitai do Shibusawa Seiichirō
Công tước , Nguyên soái Lục quân Đế quốc Nhật Bản và hai lần làm Thủ tướng Nhật. Ông được coi là kiến trúc sư của nền tảng chính trị quân sự của Nhật Bản
(31/5/1835 - 20/6/1869). Là một kiếm khách và chiến lược gia đại tài trong lịch sử quân sự Nhật Bản. Với vai trò Phó cục trưởng Shinsengumi (新選組 Tân Tuyển Tổ, lực lượng cảnh sát
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
**_Total War: Shogun 2: Fall of the Samurai_** là bản mở rộng độc lập của tựa game chiến lược _Total War: Shogun 2_ phát hành vào ngày 23 tháng 3 năm 2012. Game lấy bối
**Bá tước** là một quân nhân, chính trị gia và lãnh đạo , tổ chức này phát triển thành đảng phái chính trị đầu tiên của Nhật Bản. Hình ảnh của ông được in trên
thumb|right|Ủy ban Dai Nippon Teikoku Kendo Kata. Negishi Shingorō (1844 - 1913) đang ngồi ở phía trước bên phải với Tsuji Shinpei (Shingyoto Ryu) bên cạnh ông. Ở phía sau từ phải sang trái: Takano
Bá tước là một samurai và chính trị gia trong thời kỳ Bakumatsu và đầu thời kỳ Minh Trị. Ông là một nhà lãnh đạo về sau phát triển thành một đảng phái chính trị
, còn gọi là , là một _daimyō_ của phiên Tosa vùng Shikoku vào cuối thời Edo. Ông thường được gọi là "**Lãnh chúa Yōdō**" theo nguồn tài liệu phương Tây. ## Tiểu sử Yamauchi
**Ryōma den** (**龍馬伝**) là bộ phim truyền hình lịch sử (Taiga Drama) thứ 49 của đài truyền hình Nhật Bản NHK. Ryōma den được khởi chiếu từ tháng 3 năm 2010 và dự định sẽ
| label2 = Kanji | data2 = | label3 = Kana | data3 = | label4 = Hiragana | data4 = | label5 = Katakana | data5 = | label6 = Kyūjitai | data6 =
nhỏ|Các đơn vị hành tỉnh cũ của Nhật Bản vào năm 1867, trước khi cải cách. là một cuộc cải cách hành chính được thực hiện bởi chính quyền Minh Trị vào năm 1868, trong
**Mōri Motonari** (kanji: 毛利 元就, phiên âm Hán Việt: _Mao Lợi Nguyên Tựu_) là một lãnh chúa _Daimyō_ xứ Aki vào cuối thời kỳ Muromachi cho đến thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Nhật
là một chính trị gia Nhật Bản, từng là Thủ tướng Nhật Bản 3 nhiệm kì liên tục trong thời gian từ 9 tháng 11 năm 1964 đến 7 tháng 7 năm 1972. Ông là
Ngày **8 tháng 7** là ngày thứ 189 (190 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 176 ngày trong năm. ## Sự kiện *1497 – Thuyền trưởng Vasco da Gama, khởi hành chuyến đi đầu