✨Fuhanken Sanchisei

Fuhanken Sanchisei

nhỏ|Các đơn vị hành tỉnh cũ của Nhật Bản vào năm 1867, trước khi cải cách. là một cuộc cải cách hành chính được thực hiện bởi chính quyền Minh Trị vào năm 1868, trong thời kỳ Mạc phủ Tokugawa sụp đổ và Chiến tranh Boshin. Trong khoảng 4 năm, các đơn vịhành tỉnh cũ của Nhật Bản đã được tái tổ chức thành ba dạng: , lãnh địa và . Điều này, cùng với những cải cách sau này trong việc bãi bỏ hệ thống han năm 1871, đã dẫn đến sự hình thành của 45 trong số 47 tỉnh hiện đại của Nhật Bản.

Trong số các tỉnh hiện tại ở Nhật Bản, một số ban đầu đã được thành lập ở dạng xấp xỉ như ngày nay: Nagasaki, Ōsaka, Nara, Shiga (như Ōtsu-ken) và Niigata (không bao gồm đảo Sado, được thêm vào năm 1876).

Bối cảnh

Vào cuối thời kỳ Asuka, hệ thống và Bộ luật Taihō được ban hành vào năm 701 và 702. Những điều luật này đã chia các khu vực của Nhật Bản thành những đơn vị hành chính khác nhau, sử dụng thuật ngữ của nhà Đường do ảnh hưởng của Khổng giáo ở Nhật Bản. Điều này dẫn đến việc tạo ra các , được chia thành các . Ngoài các khu vực xung quanh kinh đô Nara (Kinai), phần còn lại của Nhật Bản đã được tổ chức thành các vùng lớn gọi là . Hình thái này được gọi là Gokishichidō (五畿七道, Ngũ kỳ Thất đạo)

Trong thời Mạc phủ Tokugawa, lãnh địa được kiểm soát bởi các gia tộc do một daimyo lãnh đạo, được gọi là han. Mỗi han là một lãnh địa riêng biệt với luật riêng của nó. Năm 1866, phiên Satsuma và phiên Chōshū đã thành lập Liên minh Satchō nhằm lật đổ Mạc phủ Tokugawa và củng cố quyền lực của Thiên hoàng. Thắng lợi của phe bảo hoàng dẫn đến sự khởi đầu của Chiến tranh Boshin và Minh Trị Duy tân. Thủ phủ Edo của Tokugawa đã sụp đổ vào tháng 5 năm 1868, dẫn đến triều đình Minh Trị nắm lại quyền kiểm soát đất nước.

Lịch sử

Vào tháng 6 năm 1868, một sắc chỉ tạm thời được gọi là đã được ban bố, được soạn thảo bởi Fukuoka Takachika và Soejima Taneomi, thành lập chính phủ trung ương của Nhật Bản dưới thời Minh Trị. Sắc chỉ đã giải tán các chính quyền của Mạc phủ Tokugawa, tạo ra các thống đốc tỉnh do chính phủ bổ nhiệm, gọi là và . Những các khu vực khác vẫn còn dưới quyền lực của daimyo, han, chưa được áp dụng vì chúng chưa thay đổi tổ chức và vẫn duy trì một hệ thống luậc tục độc lập.

Ngày 14 tháng 6 năm 1868, Hakodate-fu và Kyoto-fu được thành lập như hai hành tỉnh đầu tiên trong thời cải cách. Vào thời điểm đó, quân bảo hoàn gđang chiến đấu với Cộng hòa Ezo trong Trận Hakodate, vì vậy, mặc dù đã được tuyên bố thành lập, nhưng thực tế triều đình vẫn chưa kiểm soát được Hakodate. Đến cuối tháng 6, 11 hành tỉnh đã được thành lập, bao gồm Edo-fu, thủ phủ cũ của Mạc phủ Tokugawa.

Vào tháng 7 và tháng 8 năm 1869, trong khi thực hiện phế phiên, lập huyện, triều đình đã ban lệnh cho các han còn lại, yêu cầu các daimyo tự nguyện trả lại lãnh địa của mình cho triều đình và hoặc sẽ bị triều đình thu hồi bằng vũ lực. Các daimyo đồng ý với điều này đã được bổ nhiệm làm , trở thành một quan chức tuân thủ theo luật pháp và hướng dẫn của chính quyền trung ương.

Các hành tỉnh đầu tiên hình thành từ những vùng lãnh địa bị tịch thu trong Chiến tranh Boshin, đặc biệt là một phần của liên minh Ōuetsu Reppan Dōmei.

Các khu vực ở Kanto ban đầu không nhận được một tên và hậu tố thích hợp, mặc dù triều đình đã bổ nhiệm các quan chức cho các hành tỉnh này.

Thành lập phủ hành tỉnh

Ban đầu, Seitaisho đã tuyên bố tất cả các khu vực có một jōdai, cụ thể là Osaka, Sunpu và Kyoto, shoshidai hoặc một bugyou được trao cho hậu tố fu, trong khi các khu vực khác đều được chỉ định là ken. Hai đầu tiên được thành lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1868 là Kyoto-fu và Hakodate-fu. Đến cuối năm 1868, mười fu đã được thành lập: Kyoto, Hakodate, Osaka, Nagasaki, Edo (sau là Tokyo), Kanagawa, Watarai, Nara, Echigo (sau là Niigata) và Kōfu. Do một số hành tỉnh nhập thêm đất phi đô thị hoặc bị sáp nhập vào các lãnh thổ khác, năm 1869 chỉ còn lại 3 phủ hành tỉnh: Kyoto-fu, Osaka-fu và Tokyo-fu. Tình trạng này giữ nguyên cho đến năm 1943, khi Tokyo-fu và Tokyo-shi được sáp nhập để tạo thành Tokyo-to.

Quy tắc đặt tên và quyền tài phán

Quy ước đặt tên chung cho các hành tỉnh và han là theo nơi đặt trị sở của nó. Tuy nhiên, điều này đôi khi dẫn đến những cái tên khó hiểu, do các trị sở nằm ở vị trí không tập trung hoặc trong vùng biệt lệ. Ví dụ, Nirayama-ken được đặt theo địa danh Nirayama trên Bán đảo Izu, nhưng nó quản lý một phần của Shizuoka, Yamanashi, Tokyo, Kanagawa và Saitama. Nhiều hành tỉnh được sáp nhập để đạt hiệu quả quản trị, nhưng vào tháng 10 và tháng 11 năm 1871, khi các han được bãi bỏ, hầu hết các hành tỉnh này lại được tổ chức lại thành một hình thức hoàn toàn khác.

Thành lập các hành tỉnh

Các hành tỉnh được liệt kê dưới đây đều được thiết lập trước khi bãi bỏ hệ thống han. Việc hủy bỏ chỉ được liệt kê nếu có trước ngày 29 tháng 8 năm 1871, thời điểm bãi bỏ có hiệu lực.

Hokkaidō và Tōhoku

Sau khi các daimyo ở miền bắc bị tước bỏ địa vị xã hội trong Chiến tranh Boshin, các hành tỉnh sau đây đã được thành lập. Hầu hết chúng chỉ có tên và không hoạt động như các thực thể phù hợp.

Vùng Kanto

Vùng Chūbu

Vùng Kansai

Vùng Chūgoku, Shikoku

Kyushu

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Các đơn vị hành tỉnh cũ của Nhật Bản vào năm 1867, trước khi cải cách. là một cuộc cải cách hành chính được thực hiện bởi chính quyền Minh Trị vào năm 1868, trong
là một phủ của Nhật Bản, nằm ở vùng Kinki trên đảo Honshū. Phủ Osaka có dân số 8,778,035 () và có diện tích địa lý là . Phủ Osaka giáp với tỉnh Hyōgo ở
thumb|Bản đồ các vùng hành chính của Nhật Bản vào năm 1600, từ Murdoch và Yamagata. thumb|Bản đồ các vùng hành chính của Nhật Bản trong [[thời kỳ Kamakura tới năm 1868.]] **Lệnh chế quốc**