✨Pháo kích Shimonoseki

Pháo kích Shimonoseki

là một loạt các cuộc pháo kích chống lại phiên Chōshū vào năm 1863 và 1864, nhằm giành quyền kiểm soát eo biển Shimonoseki bởi hạm đội liên hợp hải quân bốn nước Anh, Pháp, Hà Lan và Mỹ, diễn ra ngoài khơi và trên bờ biển Shimonoseki.

Bối cảnh

Bất chấp những nỗ lực xoa dịu của Mạc phủ Tokugawa nhằm thiết lập bầu không khí đoàn kết hòa bình, nhiều daimyō ​​vẫn cay đắng bất bình với chính sách mở cửa ngoại thương của Mạc phủ. Sự phản đối mạnh mẽ đối với ảnh hưởng của châu Âu và Mỹ bùng lên thành xung đột mở khi Thiên hoàng Kōmei, phá vỡ truyền thống triều đình hàng thế kỷ, bắt đầu đóng vai trò tích cực trong các vấn đề của nhà nước và ban hành vào ngày 11 tháng 3 và 11 tháng 4 năm 1863 chiếu chỉ "Lệnh trục xuất những kẻ man di" (攘夷実行の勅命 – Jōi jikkō no chokumei).

Phiên Chōshū, dưới sự lãnh đạo của daimyō Mōri Takachika, bắt đầu hành động trục xuất tất cả người nước ngoài sau hạn chót là ngày 10 tháng 5, theo lịch truyền thống của Nhật Bản. Công khai thách thức Mạc phủ, Takachika ra lệnh cho quân mình nổ súng mà không báo trước đối với tất cả các tàu thuyền nước ngoài đi qua eo biển Shimonoseki. Đường thủy dài 600 mét mang tính chiến lược nhưng nguy hiểm này chia cắt các đảo Honshū và Kyūshū và cung cấp một con đường nối Biển Nội địa với Biển Nhật Bản.

Ngay cả trước khi căng thẳng leo thang ở eo biển Shimonoseki, các nhà ngoại giao và chuyên gia quân sự nước ngoài, đặc biệt là Công sứ Mỹ tại Nhật Bản Robert Pruyn và Đại úy Hải quân Mỹ David McDougal đã nhận thức được tình trạng bấp bênh ở Nhật Bản. McDougal đã viết một bức thư cho Bộ trưởng Hải quân, Gideon Welles, ngày 12 tháng 6 năm 1863, nêu rõ, "Ý kiến ​​chung là chính phủ Nhật Bản đang trong giai đoạn trước của cuộc cách mạng, đối tượng chính là trục xuất người nước ngoài."

Tôn vương Nhương di

Phiên Chōshū được trang bị hầu hết là những khẩu đại bác cổ, bắn đạn đại bác, nhưng cũng có một số vũ khí hiện đại, chẳng hạn như năm khẩu Dahlgren, đã được Mỹ tặng lại cho Nhật Bản, và ba tàu chiến hơi nước do Mỹ chế tạo: thuyền ba buồm Daniel Webster với sáu khẩu đại bác, thuyền hai buồm Lanrick, hoặc Kosei, với mười khẩu đại bác và tàu hơi nước Lancefield, hay Koshin, mang bốn khẩu đại bác.

Cuộc tấn công đầu tiên xảy ra vào ngày 25 tháng 6 năm 1863, ngay sau khi "Sắc chỉ nhương di" có hiệu lực. Tàu thương mại chạy bằng hơi nước SS Pembroke, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Simon Cooper, đang thả neo bên ngoài eo biển Shimonoseki thì bị hai tàu chiến của Chōshū được chế tạo ở châu Âu đánh chặn và nã pháo.

Thủy thủ đoàn của một tàu Chōshū đã chế nhạo các thủy thủ Mỹ điên cuồng bằng một tiếng kêu to và khiếp đảm: "Tôn vương Nhương di!" ( sonnō jōi). Dưới làn đạn đại bác bắn tới tấp, Pembroke đã cố gắng tiến được và thoát ra ngoài qua eo biển Bungo liền kề với chỉ thiệt hại nhẹ và không có thương vong.

Khi vừa đặt chân đến Thượng Hải, Cooper đã nộp báo cáo về vụ tấn công và gửi nó đến Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Yokohama, Nhật Bản. Ngày hôm sau, tàu thông báo của hải quân Pháp Kien Chan cũng đang thả neo bên ngoài eo biển, thì pháo binh của quân Chōshū trên đầu các mũi tàu xung quanh Shimonoseki đều nã đạn như mưa vào con tàu. Kien Chan bị hư hỏng động cơ và bị thương bốn người trước khi thoát ra biển khơi.

Vào ngày 11 tháng 7, bất chấp cảnh báo từ thủy thủ đoàn của tàu Kien Chan, tàu chiến 16 khẩu đại bác Medusa của Hà Lan đã đi vào eo biển Shimonoseki. Thuyền trưởng lái tàu là François de Casembroot, tin chắc rằng Lãnh chúa Mori sẽ không dám bắn vào tàu của mình do sức mạnh của con tàu của ông và mối quan hệ lâu đời giữa Hà Lan và Nhật Bản.

Nhưng Takachika đã dám làm vậy, nã oàng oàng vào Medusa bằng hơn ba mươi quả đạn pháo và giết hoặc làm bị thương chín thủy thủ. De Casembroot bắn trả và chạy thoát khỏi vòng vây của quân Chōshū với tốc độ tối đa, lo sợ sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng của Tổng lãnh sự Hà Lan, người có mặt trên tàu. Trong một thời gian ngắn, lãnh chúa Nhật Bản đã bắn trúng cờ của hầu hết các quốc gia có lãnh sự quán tại Nhật Bản.

Trận chiến eo biển Shimonoseki

thumb|[[USS Wyoming (1859)|USS Wyoming chiến đấu ở eo biển Shimonoseki chống lại các tàu chiến chạy bằng hơi nước Daniel Webster, LanrickLancefield của Chōshū.]]

Sáng ngày 16 tháng 7 năm 1863, được sự tán thành của công sứ Pruyn, trong một phản ứng nhanh chóng rõ ràng trước cuộc tấn công vào tàu Pembroke, tàu khu trục USS Wyoming, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng McDougal, đã đi vào eo biển và một mình giao chiến với tàu do Mỹ chế tạo. nhưng hạm đội địa phương có người điều khiển kém cỏi trong gần hai giờ trước khi rút lui. McDougal đánh chìm hai tàu đối phương và làm hư hại nặng một chiếc khác, cùng với đó là thương vong cho khoảng 40 người Nhật. Chiếc Wyoming bị thiệt hại nghiêm trọng, 4 thủy thủ đoàn chết và 7 người bị thương, một người sau đó chết vì vết thương của mình. Hai tàu hơi nước phía Nhật bị tàu Wyoming đánh chìm được Chōshū đưa lên một lần nữa vào năm 1864 và cột vào cảng Hagi làm chiến lợi phẩm.

Diễn biến

Chiến sự năm 1863

thumb|left|Cuộc giao tranh của Pháp tại Shimonoseki, với các tàu chiến [[Tàu thông báo Pháp Tancrède (1862)|Tancrède và Semiramis, dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô Đốc Charles Jaurès. Le Monde illustré, ngày 10 tháng 10 năm 1863.]] Sau cuộc giao tranh của McDougal, vào ngày 20 tháng 7, Hải quân Pháp trả đũa vụ tấn công tàu buôn của họ. Lực lượng của Pháp bao gồm thủy quân lục chiến và hai tàu chiến, tàu thông báo Tancrède và kỳ hạm của Đô đốc, Semiramis. Với 250 người dưới sự chỉ huy của Đại úy Benjamin Jaurès, họ tràn vào Shimonoseki và phá hủy một thị trấn nhỏ, cùng với ít nhất một ụ pháo.

Sự can thiệp được đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Nhật Bản là Duchesne de Bellecourt ủng hộ, nhưng chính phủ Pháp, một khi nhận được thông báo, đã chỉ trích mạnh mẽ các đại diện của họ tại Nhật vì đã có những bước đi thiếu nghiêm túc như vậy, vì lý do rằng Pháp có những cam kết quân sự quan trọng hơn nhiều để tôn trọng ở các khu vực khác trên thế giới, và không thể để xảy ra xung đột ở Nhật Bản. Duchesne de Bellecourt bị miễn chức vào năm 1864.

Mạc phủ còn chúc mừng Jaurès vì đã có những bước đi quyết định chống lại phe Nhương di, và được trao tặng một biểu ngữ đặc biệt.

Chiến sự năm 1864

thumb|Bản đồ cuộc tấn công của quân đồng minh vào Shimonoseki, vào tháng 9 năm 1864. thumb|Trận pháo kích Shimonoseki của tàu chiến Pháp [[Tàu thông báo Pháp Tancrède (1862)|Tancrède (phía sau) và kỳ hạm của Đô đốc, Semiramis. (cận cảnh), Jean-Baptiste Henri Durand-Brager, 1865.]] thumb|Lữ đoàn hải quân Anh và lính thủy đánh bộ tấn công hàng rào bằng cọc tại Shimonoseki, [[The Illustrated London News, Tháng 12 năm 1864.]] Ngày 17 tháng 8 năm 1864, một hạm đội bao gồm chín tàu Anh (, Conqueror, Tartar, Leopard, Barrosa, Perseus, Argus, CoquetteBouncer), bốn tàu Hà Lan (Djambi, Metalen-Kruis, MedusaAmsterdam), và ba tàu chiến Pháp (Tancrède, SémiramisDupleix), cùng với 2.000 binh lính, thủy quân lục chiến và thủy thủ, tất cả dưới sự chỉ huy của Đô đốc Sir Augustus Leopold Kuper của Hải quân Hoàng gia, đã rời khỏi Yokohama tiến vào eo biển Shimonoseki.

Tàu hơi nước do Mỹ điều hành đã đồng hành cùng hạm đội nhằm góp phần hỗ trợ chiến dịch này. Trận chiến kéo dài hai ngày sau đó vào ngày 5 và 6 tháng 9 đã làm được điều mà các cuộc hành quân trước đó không làm được; nó đã phá hủy khả năng của phiên Chōshū trong việc gây chiến với các cường quốc phương Tây. Không thể sánh được với hỏa lực của hạm đội quốc tế, và trong bối cảnh thương vong ngày càng tăng, quân binh Chōshū cuối cùng đầu hàng hai ngày sau vào ngày 8 tháng 9 năm 1864.

Thương vong của quân Đồng minh bao gồm 72 người chết hoặc bị thương và hai tàu của Anh bị hư hại nặng. Một tường thuật đầy đủ về trận chiến có trong quyển A Diplomat in Japan của Ernest Satow. Satow đã có mặt với tư cách là phiên dịch viên trẻ tuổi cho đô đốc Anh, Augustus Kuper trên chiếc kỳ hạm HMS Euryalus của Anh, do Thuyền trưởng J. H. I. Alexander chỉ huy. Đó cũng là hành động mà tại đó Duncan Gordon Boyes được thưởng Thập tự Chiến thắng (VC) của mình ở tuổi mười bảy. Satow mô tả Boyes đã nhận được phần thưởng "vì đức tính cực kỳ can đảm ở một người quá trẻ." Một người chiến thắng VC khác tại Shimonoseki là Thomas Pride, và người thứ ba là người Mỹ đầu tiên giành được huy chương, William Seeley. De Casembroot đã viết lời tường thuật của mình về các sự kiện này trong quyển De Medusa in de wateren van Japan, in 1863 en 1864.

Thỏa thuận nghiêm ngặt, được đưa ra sau lệnh ngừng bắn và do Công sứ Mỹ Pruyn tiến hành đàm phán, bao gồm khoản bồi thường 3.000.000 đô la từ phía Nhật Bản, số tiền tương đương với chi phí của khoảng 30 tàu hơi nước vào thời điểm đó. Mạc phủ Tokugawa tỏ ra không có khả năng chi trả số tiền như vậy, và thất bại này trở thành cơ sở của sức ép từ bên ngoài nhằm tiếp tục mở các cảng; Nhật Bản buộc phải lựa chọn giữa việc bồi thường ba triệu piastres và mở một cảng khác trên Biển Nội địa. Bến cảng Hyōgo đã được mở cửa cho hoạt động ngoại thương và thuế hải quan được giảm đồng nhất xuống còn 5%.

Hậu quả

Ngay sau sự can thiệp của nước ngoài, Mạc phủ cũng đã khởi động chuẩn bị riêng cho một cuộc thảo phạt Chōshū, sử gọi là cuộc chinh phạt Chōshū lần thứ nhất. Mạc phủ làm như vậy nhằm trừng phạt sự biến Cấm môn năm 1864, do quân phiên Chōshū dám tấn công binh lính Mạc phủ ở Kyoto. Tuy nhiên, cuộc chinh phạt đã bị hủy bỏ sau khi một thỏa hiệp được thông qua, liên quan đến việc xử trảm những kẻ chủ mưu của cuộc nổi dậy. Cùng thời điểm với chiến dịch này, Hải quân Hoàng gia Anh giao chiến với samurai Satsuma trong vụ pháo kích Kagoshima, một trong số các cuộc xung đột Nhật Bản năm 1863 và 1864.

Ý nghĩa lịch sử

Gần giống với một loạt các cuộc xung đột nhỏ do các cường quốc châu Âu gây ra ở châu Á, châu Phi và các nơi khác trong thế kỷ XIX, những rắc rối ở Nhật Bản dường như minh chứng cho chính sách ngoại giao pháo hạm của họ, một công cụ phổ biến trong chủ nghĩa đế quốc. Sự căm phẫn cay đắng trước ảnh hưởng của nước ngoài khiến phiên Chōshū cảm thấy có lý khi tham gia vào những hành động khiêu khích quân sự ngu xuẩn bất chấp chính phủ của họ.

Sự tức giận mang tính dân tộc tương tự nhắm vào người nước ngoài sau này bùng phát trong Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn ở Trung Quốc. Sau đó, Mỹ và các đồng minh châu Âu cảm thấy buộc phải sử dụng vũ lực quân sự để duy trì hiệp ước với Nhật Bản. Đối với Mỹ, tháng 7 năm 1863 là một tháng quan trọng, với các trận Gettysburg và Vicksburg. Trong khi bị lôi kéo một cách cay đắng vào cuộc nội chiến đẫm máu, chính phủ của Tổng thống Abraham Lincoln đã bị thế giới theo dõi cẩn thận vì những dấu hiệu của sự yếu kém và thiếu quyết đoán. Các hành động của tàu USS Wyoming đã khiến nó trở thành tàu chiến nước ngoài đầu tiên duy trì một cách xúc phạm các quyền lợi về hiệp ước với Nhật Bản; thực tế này cùng với khả năng các sự kiện sẽ làm Mỹ sa lầy trong một cuộc chiến tranh nước ngoài đã khiến trận Shimonoseki trở thành một cuộc giao tranh quan trọng.

Năm 2004, chính quyền thành phố Shimonoseki, nhận thức được tầm quan trọng của cuộc pháo kích trong lịch sử Nhật Bản, đã đặt một số bản sao với kích thước thật của những khẩu đại bác mà Chōshū sử dụng tại nơi chúng bị chiếm. Các bản sao được làm bằng thép rỗng và bao gồm hiệu ứng âm thanh hoạt động bằng đồng xu và khói từ thùng.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một loạt các cuộc pháo kích chống lại phiên Chōshū vào năm 1863 và 1864, nhằm giành quyền kiểm soát eo biển Shimonoseki bởi hạm đội liên hợp hải quân bốn nước Anh, Pháp,
**Pháo kích Kagoshima**, còn gọi là , là một trận chiến giữa Anh và phiên Satsuma ở Kagoshima từ ngày 15 đến ngày 17 tháng 8 năm 1863. Người Anh đang cố gắng lấy tiền
**Trận chiến eo biển Shimonoseki** (tiếng Nhật:下関海戦, _Shimonoseki Kaisen_, _Hạ Quan hải chiến_) là một trận hải chiến diễn ra vào ngày 16 tháng 7 năm 1863, do tàu chiến của Hải quân Mỹ tiến
là một samurai từ phiên Chōshū có đóng góp đáng kể cho công cuộc Minh Trị Duy tân. Ông từng sử dụng một số bí danh để che giấu các hoạt động lật đổ Mạc
**Sir Ernest Mason Satow**, (30 tháng 6 năm 1843 – 26 tháng 8 năm 1929), là một nhà ngoại giao và nhà Nhật Bản học người Anh. Satow sinh ra trong gia đình có cha
là một samurai sống vào thời Bakumatsu và là cộng sự thân cận của Sakamoto Ryōma trong phong trào lật đổ Mạc phủ Tokugawa, được xem là chí sĩ có đóng góp lớn cho công
là _daimyō_ thứ 13 của phiên Chōshū. Về sau ông được phép sử dụng một chữ từ tên của Tướng quân Tokugawa Ieyoshi và đổi tên thành **Yoshichika** (慶親). Phiên trấn của ông là kẻ
là một Niên hiệu Nhật Bản sau Thời kỳ Văn Cửu và trước Thời kỳ Minh Trị. Thời kỳ này chỉ kéo dài hơn hai năm từ tháng 3 năm 1864 đến tháng 4 năm
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Lịch sử quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan** giới thiệu thay đổi về lịch sử quan hệ giữa hai bờ eo biển từ xưa đến nay. Các ghi chép sớm nhất trong lịch
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**David Stockton McDougal** (ngày 27 tháng 9 năm 1809 – ngày 7 tháng 8 năm 1882) là một sĩ quan Hải quân Mỹ thời Nội chiến Hoa Kỳ nổi danh nhiều nhất về khả năng
**Trận Dinh Khẩu** (người Nhật gọi trận này là Trận Ngưu Trang / 牛莊作戦) là một trận chiến trên bộ trong Chiến tranh Giáp Ngọ giữa Lục quân Đế quốc Nhật Bản và nhà Thanh
**Tàu tuần tra tên lửa lớp Hayabusa** (tiếng Nhật: **はやぶさ型ミサイル艇**) là một lớp tàu tuần tra mang tên lửa thuộc Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản (JMSDF), do Nhà máy đóng tàu Shimonoseki
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Busan** (Tiếng Hàn: 부산, Hanja: 釜山, Hán Việt: Phủ Sơn) () hay còn được viết là **Pusan**, tên chính thức là **Thành phố Đô thị Busan** (Tiếng Hàn: 부산광역시, Hanja: 釜山廣域市, Hán Việt: Phủ Sơn
là những năm cuối cùng dưới thời Edo khi Mạc phủ Tokugawa sắp sụp đổ. Tiêu biểu là hàng loạt sự kiện quan trọng diễn ra từ năm 1853 đến năm 1867 khiến Nhật Bản
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
Không rõ về những cư dân đầu tiên đã định cư tại **Đài Loan**, nối tiếp họ là những người Nam Đảo (Austronesia). Hòn đảo bị người Hà Lan thuộc địa hóa vào thế kỷ
**Chiến tranh Nga–Nhật** hay **Nhật-Nga chiến tranh** (tiếng Nhật: 日露戦争 _Nichi-Ro Sensō_, âm Hán Việt: "Nhật Lộ chiến tranh"; tiếng Nga: Русско-японская война, "Russko-yaponskaya voina"; tiếng Trung: 日俄戰爭 _Rì'ézhànzhēng_, "Nhật Nga chiến tranh") là một
**Đài Loan dưới sự cai trị của nhà Thanh** đề cập đến sự cai trị của nhà Thanh đối với Formosa (khu vực ven biển của Đài Loan ngày nay) từ năm 1683 đến năm
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
**USS _Philip_ (DD/DDE-498)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**Lưu Vĩnh Phúc** (tiếng Trung: 劉永福/刘永福) (1837—1917), tự **Uyên Đình** (淵亭/渊亭), người Khâm Châu, Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây), quê ở Bác Bạch, Ngọc Lâm, Quảng Tây, là một vị tướng vào cuối thời
**Hải quân Pháp** (tiếng Pháp: _Marine nationale_), tên gọi không chính thức là **La Royale**, là lực lượng hải quân của Lực lượng Vũ trang Pháp. Được thành lập từ năm 1624, Hải quân Pháp
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
**Đài Bắc** (, Hán Việt: Đài Bắc thị; đọc theo _IPA: tʰǎipèi_ trong tiếng Phổ thông) là thủ đô của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và là thành phố trung tâm của một vùng
**Đảo Đài Loan** (Chữ Hán chính thể: 臺灣 hoặc 台灣; Chữ Hán giản thể: 台湾; Bính âm: _Táiwān_; Wade-Giles: _T'ai-wan_; tiếng Đài Loan: _Tâi-oân_) là một hòn đảo ở khu vực Đông Á, ngoài khơi
là khu vực thứ hai trong số bốn khu vực hành chính chủ lực của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trước chiến tranh thế giới thứ hai. Tên thường gọi của nơi này là
**Trung Hoa Dân quốc** () là đảo quốc và quốc gia có chủ quyền thuộc khu vực Đông Á. Ngày nay, do ảnh hưởng từ vị thế lãnh thổ cùng nhiều yếu tố chính trị
**Trùng Khánh** () là một thành phố lớn ở Tây Nam Trung Quốc và là một trong bốn thành phố trực thuộc trung ương tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Trùng Khánh
**Thẩm Dương** (tiếng Trung giản thể: 沈阳市, _Shenyang_) là một thành phố ở Đông Bắc Trung Quốc. Đây là tỉnh lỵ của tỉnh Liêu Ninh, nằm ở phía trung-bắc của tỉnh. Thẩm Dương là thành