Nguyễn Thị Nhậm (về sau được đọc trại thành Nhiệm) (chữ Hán: 阮氏任; ? – ?), phong hiệu Nhất giai Lệnh phi (一階令妃), là một cung phi của vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Gia thế
Lệnh phi Nguyễn Thị Nhậm là con gái của Kinh Môn Quận công Nguyễn Văn Nhơn, võ tướng phò trợ đắc lực của Nguyễn Ánh trong việc khôi phục triều Nguyễn. Năm 1802, vua Gia Long cho cha bà giữ chức Lưu trấn Gia Định, sau được cử làm Tổng trấn Gia Định, là vị Tổng trấn đầu tiên của miền Nam.
Năm 1822, Tổng trấn mất, dù sử sách không ghi rõ nhưng việc bà Nhậm nhập phủ làm thất thiếp cho Thiệu Trị có thể là để xoa dịu nỗi mất mát của gia đình bà.
Nhập phủ Trường Khánh
Năm 1823, bà Nhậm cùng với bà Phạm Thị Hằng được triều đình làm lễ cưới nạp vào phủ Trường Khánh cho Hoàng trưởng tử Miên Tông.
Bói cúc áo
Một hôm, Thánh Tổ Minh Mạng ban cho hai người con dâu mỗi người một cái áo sa cổ thường thêu hoa vàng. Khi vào cung yết bái được Nhân Tuyên Hoàng thái hậu ban cho mỗi người một cúc áo bằng vàng, một cái chạm hình chim phượng, cái còn lại hình cành hoa, đều được phong giấy kín. Bà Nhân Tuyên khấn trời rằng: "Ai được chiếc cúc chạm hình phượng, thì có con trước", rồi sai nữ quan đem ban cho, bảo mỗi người lấy một phong, nhưng không được mở ra, cứ để nguyên mà tiến lên. Cùng lúc đó, vua phong cho bà Hằng (sau này là Thái hậu Từ Dụ) chức Thành phi, đứng đầu các cung giai, không lập thêm ai ở bậc trên.
Có nhiều nhầm lẫn cho rằng, vào năm Thiệu Trị thứ 3, bà Nhậm được sơ phong Lệnh phi ở hàng Nhất giai, đứng đầu hậu cung, trên cả bà Hằng. Tuy nhiên, theo ghi chép về năm Thiệu Trị thứ 6 (1846) trong bản dịch Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (tập 6, quyển 76, trang 167) thì vua có dụ như sau: "Lại năm ấy tấn phong Quý phi, Lệnh phi, Lương phi, Thục phi và Thụy tần trở xuống". Điều này có nghĩa là bà Nhậm và bà Hằng đều được tấn phong lên bậc Nhất giai Phi vào năm này, tức là không hề có chuyện bà Nhậm là phi tần có thứ bậc cao nhất trong hậu cung ngay từ năm Thiệu Trị thứ 3.
Phân vị của bà Nhậm vào lần đại phong hậu cung đầu tiên, tuy không được chép nhưng dựa vào việc đến năm Thiệu Trị thứ 6 bà mới được phong làm Lệnh phi thì có thể suy đoán bà Nhậm cao nhất cũng chỉ được phong Trinh phi (貞妃) hoặc Thục phi (淑妃) ở hàng Nhị giai, vì các bậc Tam giai, Tứ giai đều đã có người tại vị.
Năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), bà chính thức được sách phong làm Nhất giai Lệnh phi (一階令妃). Năm đó, vua xuống dụ: "Đoan phi cho đổi làm Lương phi, thuộc nhất giai, chữ "Lương" ở bậc tam giai đã đưa tấn phong cho bậc nhất giai thì Lương tần cho đổi làm Thụy tần thuộc tam giai". Chức Đoan phi lúc đầu đứng thứ hai trong bậc Nhất giai, khi cải thành Lương phi được đưa xuống vị trí thứ ba, cứ theo lời dụ "Lại năm ấy tấn phong Quý phi, Lệnh phi, Lương phi, Thục phi và Thụy tần trở xuống". Như vậy, Lệnh phi Nguyễn Văn thị vẫn xếp thứ hai trong hậu cung, chỉ sau mỗi Quý phi Phạm thị, tức bà Từ Dụ Thái hậu sau này.
Qua đời
Không rõ Lệnh phi Nguyễn Văn thị mất năm nào, được ban tên thụy là Huy Thuận (徽順). Bà được táng tại núi Thuận Đạo (thuộc xã Thủy Bằng, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế), cũng là nơi tọa lạc của Xương Lăng, tẩm lăng của vua Thiệu Trị. Từ Xương Lăng, đi về hướng nam - tây nam là Xương Thọ Lăng, tẩm lăng của bà Từ Dụ; đi về hướng bắc-đông bắc là tẩm của bà Lệnh phi. Tẩm mộ của Lệnh phi Nguyễn Văn thị đã bị hư hỏng khá nặng, trên bia mộ khắc chữ Tiền triều Lệnh phi thụy Huy Thuận Nguyễn Văn thị chi tẩm (前朝令妃諡徽顺阮文氏之寑). Táng gần đó là mộ của một bà Tài nhân họ Nguyễn Đăng của vua Thiệu Trị, không rõ húy của bà Tài nhân này vì vua Thiệu Trị có đến 4 bà Tài nhân đều mang họ Nguyễn, được ghi nhận trong Thế phả.
Trong văn hóa đại chúng
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nguyễn Thị Nhậm** (về sau được đọc trại thành **Nhiệm**) (chữ Hán: 阮氏任; ? – ?), phong hiệu **Nhất giai Lệnh phi** (一階令妃), là một cung phi của vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
**Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai** (Tên cũ: **Trường nữ Gia Long**, **Trường nữ sinh Áo Tím**; tên khác: **Miki**) là một trường trung học phổ thông công lập ở Thành phố
**Nguyễn Thị Kim Ngân** (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1954) là nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và là nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà nguyên là Chủ tịch Quốc hội, nguyên
**Nguyễn Thị Dung** (阮氏蓉, ? - 1802), là một trong Tây Sơn ngũ phụng thư, và là một nữ tướng của triều Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Bà Dung là
**Nguyễn Thị Duệ** (chữ Hán: 阮氏叡; 1574-1654), hiệu **Diệu Huyền**, là một nữ danh sĩ Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII. ## Tiểu sử **Nguyễn Thị Duệ**, có tài liệu
nhỏ|phải|Nguyễn Thị Kim Tiến (thứ 3 từ trái sang), tháng 12 năm 2020 tại Hà Nội **Nguyễn Thị Kim Tiến** (sinh năm 1959) là một nữ chính trị gia, tiến sĩ Y khoa, thầy thuốc
**Nguyễn Thị Hậu** (25 tháng 9 năm 1919 dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa. Bà Nguyễn Thị Hậu được coi là người phụ nữ đầu tiên mặc áo dài lối mới theo kiểu Lemur tại
**Nguyễn Thị Oanh** (sinh ngày 15 tháng 8 năm 1995) là một vận động viên điền kinh người Việt Nam. Cô thường tham gia môn chạy trong bộ môn điền kinh, các cự ly cô
**Nguyễn Thị Oanh** (sinh ngày 15 tháng 08 năm 1995) là một vận động viên điền kinh người Việt Nam. Cô đang thi đấu cho đội điền kinh thành phố Hà Nội và thường xuyên
**Nguyễn Thị Xuân** (sinh ngày 25 tháng 10 năm 1967) là nữ chính trị gia và Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam. Bà hiện là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khoá XIV,
**Nguyễn Thị Ngọc Du** (chữ Hán: 阮氏玉琇; 1762 – 1820), phong hiệu **Phúc Lộc Công chúa** (福祿公主), là một công nữ và là một trưởng công chúa nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ##
**Ngô Thì Nhậm** hay **Ngô Thời Nhiệm** (chữ Hán: ; 25 tháng 10 năm 1746 – 1803) là một tu sĩ Phật giáo, danh sĩ, nhà văn đời Hậu Lê và Tây Sơn, có công
**Nguyễn Văn Nhơn** () hay **Nguyễn Văn Nhân**, tục gọi là **Quan lớn Sen** (1753-1822), là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Thị Liên Hằng** (tên tiếng Anh: ****; sinh năm 1974) là một nhà sử học người Mỹ gốc Việt chuyên về đề tài Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh Việt Nam và Quan hệ ngoại
**Nguyễn Thị Thu Nguyệt** (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1972) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị
**Nguyễn Thị Sửu** (hoặc **Nguyễn Thị Hường**, **Kê Sửu**, sinh ngày 9 tháng 11 năm 1973, người Tà Ôi) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà
**Nguyễn Thị Ngọc Xuân** (sinh ngày 29 tháng 9 năm 1985) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn
**Nguyễn Thị Uyên Trang** (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1982) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
Phóng viên Tạp chí Phổ biến Pháp luật Việt Nam có buổi trò chuyện với Nghệ nhân – Kỷ lục gia Nguyễn Thị Nga, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát
**Nguyễn Thị Hoàn**, tên hiệu **Ý Tĩnh Khang hoàng hậu** (chữ Hán: 懿靜康皇后, 1736 - 30 tháng 10 năm 1811), hay **Hiếu Khang hoàng hậu** (孝康皇后), là chính thất phu nhân của Nguyễn Phúc Luân,
**Nguyễn Thị Thủy** (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1977) là đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XV, thuộc đoàn đại biểu quốc hội tỉnh Bắc Kạn, là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư
**Nguyễn Thị Mơ** (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1949) là nhà giáo dục, luật gia người Việt Nam. Bà có học hàm, học vị là Giáo sư, Tiến sĩ ngành Luật, danh hiệu Nhà
**Nguyễn Thị Hồng Ngát** (sinh ngày 30 tháng 10 năm 1950) là một nhà thơ, nhà biên kịch, nguyên giám đốc Hãng phim truyện Việt Nam, Phó Cục trưởng Cục Điện ảnh, thành viên của
**Nguyễn Thị Sen** (? - ?) là tứ phi Hoàng hậu nhà Đinh, vợ của vua Đinh Tiên Hoàng trong lịch sử Việt Nam, Bà được hậu thế tôn vinh là bà tổ nghề may.
**Nguyễn Thị Cẩm** (? - ?), là phi tần của Nguyễn Dực Tông Tự Đức, dưỡng mẫu của Cảnh Tông Đồng Khánh. ## Tiểu sử ### Nhập cung Bà là người huyện Quảng Điền, phủ
**Nguyễn Khắc Thị Bảo** (còn đọc trại là **Bửu**) (chữ Hán: 阮克氏寶; 7 tháng 9 năm 1801 – 12 tháng 9 năm 1851), phong hiệu **Tứ giai Thục tần** (四階淑嬪), là một cung tần của
**Nguyễn Thị Kim Cúc** là nhà báo Việt Nam, nguyên phóng viên, biên tập viên Ban Thời sự, nguyên Phó Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam. Bà là cây bút đã để lại
**Nguyễn Thị Rành** (1900 - 1979) là 1 nữ du kích Củ Chi, được nhà nước phong tặng danh hiệu **_Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân_** (1978), truy tặng danh hiệu **_Bà mẹ
**Nguyễn Thị Thanh Nhàn** (sinh năm 1969) là một nữ doanh nhân người Việt. Bà là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Tiến bộ Quốc tế (AIC).
**Nguyễn Thị Minh Lý** (1907 - 15 tháng 6, 1997 tại tỉnh Hải Hưng cũ, nay là Hải Dương) là Nghệ sĩ nhân dân, diễn viên chèo Việt Nam, là con gái của nghệ nhân
**Nguyễn Thị Thu Nhi** (biệt danh: **_Thiên Thần Đen_** (**_Black Angel_**); sinh ngày 22 tháng 10 năm 1996), là nữ võ sĩ Quyền Anh chuyên nghiệp người Việt Nam gốc Khmer. Cô hiện là đương
**Nguyễn Thị Thu Thủy** (sinh ngày 7 tháng 8 năm 1976) là nữ Đại biểu Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà hiện là Tỉnh ủy viên, Bí thư Đảng
**Nguyễn Thị Thanh** (sinh ngày 10 tháng 2 năm 1967) là một nữ chính trị gia người Việt Nam. Bà hiện là Ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII, Ủy viên Ban Thường vụ Đảng
**Nguyễn Phúc Nhàn Yên** (chữ Hán: 阮福嫻嫣; ? – ?), phong hiệu **An Thạnh Công chúa** (安盛公主), là một công chúa con vua Thiệu Trị nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Sử sách không
**Nguyễn Phúc Ngọc Khuê** (chữ Hán: 阮福玉珪; 1807 – 1827), phong hiệu **Mỹ Khê Công chúa** (美溪公主), là một công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Biểu tình Tây Nguyên 2004** (còn được biết đến với tên gọi **Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hoặc **Thảm sát Phục Sinh''') là một cuộc biểu tình của người Thượng xảy ra vào Lễ Phục
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Giuse Nguyễn Năng** (sinh ngày 24 tháng 11 năm 1953) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông hiện đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn, Chủ
**Ngô Thì Sĩ** hay **Ngô Sĩ** (chữ Hán: 吳時仕, 1726 - 1780), tự **Thế Lộc**, hiệu **Ngọ Phong** (午峰), đạo hiệu **Nhị Thanh cư sĩ**, là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng
**Nguyễn Văn Tường** (chữ Hán: 阮文祥; 1824–1886), là đại thần phụ chính của nhà Nguyễn. ## Tên họ và thi cử Ông xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư,
**Nguyễn Hoàn** (Chữ Hán: 阮俒; 1713–1792) tự là Thích Đạo, là đại thần, nhà Sử học và nhà Thơ thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Nguyễn Hoàn là con
**Nguyễn Sinh Sắc** (chữ Nho: 阮生色, còn gọi là **Nguyễn Sinh Huy** (阮生輝); sách báo thường gọi bằng tên **cụ Phó bảng**; **cụ Sắc**, 1862 – 27 tháng 11, 1929) là cha ruột của Chủ
**Chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn (1787–1802)** là giai đoạn thứ hai của cuộc chiến tranh Tây Sơn – Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn Ánh trở về tái chiếm Gia
**Nguyễn Nhạc** (chữ Hán: 阮岳; 1743 – 1793) hay còn gọi là **Nguyễn Văn Nhạc**, là vị hoàng đế sáng lập ra Nhà Tây Sơn và ở ngôi hoàng đế từ năm 1778 đến năm
**Nguyễn Huy Lượng** (chữ Hán: 阮輝諒; 1750 - 1808) là nhà chính trị, danh sĩ nổi tiếng ở cuối đời Lê trung hưng, nhà Tây Sơn đến đầu đời nhà Nguyễn trong lịch sử Việt
**Nguyễn Xuân Phúc** (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Quảng Nam) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông nguyên là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam