✨Ngựa Phú Yên
nhỏ|phải|Một con ngựa Phú Yên ở cố đô Huế ngày nay nhỏ|phải|Ngựa Phú Yên ở kinh đô Huế trong lịch sử Ngựa Phú Yên hay còn gọi là ngựa cu, ngựa cỏ, ngựa xứ Nẫu là giống ngựa lâu đời được nuôi ở một số tỉnh miền Trung như Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Khánh Hòa của Việt Nam, trong đó thủ phủ là tỉnh Phú Yên, đây là xứ ngựa nổi tiếng một thời. Ngựa Phú Yên từng được đánh giá cao, dùng vào nhiều việc. Ngựa Phú Yên từng được xem là giống ngựa tốt, thường được chọn dâng triều đình nhà Nguyễn làm ngựa dụng. Người dân ở Phú Yên có truyền thống dùng ngựa trong đời sống hằng ngày. Qua một thời chinh chiến, ngựa ở đây giờ được dùng nhiều để kéo, cưỡi, thồ.
Ngày xưa người dân các địa phương trong tỉnh Phú Yên đều nuôi ngựa. Lúc đó nhà nào có con ngựa cũng như bây giờ có xe máy. Ngựa nuôi dùng để thồ hàng, phục vụ nhu cầu đi lại và bán cho các vùng khác, nhiều vùng miền núi, đồng quê xứ Nẫu, ngựa vẫn còn lam lũ cùng người cưỡi, thồ hàng, kéo xe, dự các hội đua từ các vùng Tuy Hòa, Tuy An, Sơn Hòa, Đồng Xuân (Phú Yên) đến vùng Vân Canh, An Lão, An Nhơn, Phù Cát (Bình Định), vó ngựa vẫn lóc cóc trong nắng sớm mưa chiều và đã đi vào lịch sử văn hóa của người dân nơi đây.
Tại nông thôn ngựa là phương tiện giao thông vận tải, thuận lợi và thích hợp, chắc chắn đã giúp con người rất nhiều ngay từ thời mở đất. Tại vùng đồng bằng, chung quanh các thị trấn dùng ngựa kéo xe vận chuyển hành khách và hàng hóa trong phạm vi từng chặng đường ngắn. Thời kỳ chiến tranh, hàng ngàn con ngựa ở Phú Yên cũng được huy động tham gia tải gạo, thực phẩm, đạn dược ra chiến trường. Khi đường sá thông thoáng, người dân bắt đầu đóng xe cho ngựa kéo, rồi hình thành nghề vận tải bằng xe ngựa và thịnh hành trong thời gian dài. Tuy không còn nhiều như trước nhưng hiện nay Phú Yên vẫn được xem là vùng đất của tiếng vó ngựa, là nơi có nhiều giống ngựa tốt, nhất là ngựa thồ.
Lịch sử
Nhiều tài liệu lịch sử có ghi chép ngựa Phú Yên. Sách Đại Nam nhất thống chí có chép: "ngựa ở Phú Yên các huyện đều có, trên đường làng ngựa đi từng bầy, người ta buôn bán và chuyên chở. Đàn bà cưỡi ngựa rất giỏi". Lê Quý Đôn đã từng viết trong quyển Vân Đài Loại Ngữ: "Nước ta, tỉnh Tuyên Quang và Cao Bằng đều sẵn nhiều ngựa. Phủ Phú Yên và xứ Quảng Nam càng nhiều ngựa, hàng trăm, hàng ngàn, thành đàn như là trâu dê. Khách buôn, đàn bà cũng cưỡi ngựa, dùng ngựa thồ hàng rồi bán luôn cả ngựa". Ngựa Phú Yên từng có một thương hiệu là "giống tốt nhất ở Trung kỳ". Ngựa Phú Yên được triều đình nhà Nguyễn xếp vào loại ngựa dụng. Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức thích dùng ngựa Phú Yên và giao cho quan lại Phú Yên tuyển chọn, chăm sóc những con ngựa quý để đưa về Kinh, họ giao cho Phú Yên phải mua ngựa nộp và cắt cử người về kinh hướng dẫn việc nuôi ngựa. Việc các quan Phú Yên tiến dâng ngựa tốt được ghi vào sách Thực lục.
Cristoforo Borri từng có 8 ngày đi trên lưng voi ngựa của ông và đoàn tùy tùng quan trấn thủ Pallucambi đến cảng thị Nước Mặn. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân vùng này luôn gắn với việc sử dụng ngựa chiến, như khởi nghĩa Tây Sơn với vó ngựa một trời nam chinh bắc chiến. Khi có giặc đến, ngựa thồ được huấn luyện thành ngựa chiến.
Đặc điểm
Thể chất
Do có nhiều giống tốt, chạy nhanh và dẻo dai nên ngựa xứ Nẫu hay được chọn dâng cho triều đình, xếp vào hàng "ngựa dụng", được xem là "giống tốt nhất Trung kỳ". Ngựa Phú Yên được người phương Tây mô tả là dai sức và hung dữ, trong văn chương nó được tả là chạy nhanh và dẻo dai. Ngày nay, ngựa Phú Yên không còn thuần giống, hầu hết được mua về từ tỉnh Lâm Đồng (ngựa Đà Lạt) hoặc các tỉnh phía Nam Ngựa Phú Yên rất khỏe, chúng có thể thồ hàng với trọng lượng 100kg và kéo được 800kg (không kể xe ngựa). Ngựa thồ bình thường đều có thể tải 100kg, sung sức thì trên 120kg, chúng đi lại rất khéo trên những con đường gồ ghề, kể cả độ dốc trật ót, qua vùng suối nước hiểm nguy hay trong đêm tối, hàng hóa nhất là trái cây thường không bị dằng xóc, bầm dập. Ngựa còn nhỏ thì chưa rụng lông cào.
Ngựa cái thồ hàng thì có thể "đánh đôi đánh đọ", đi thành từng đàn được. Ngựa cái hiền lành, lại tận tụy, nên dù thồ yếu hơn (khoảng 120kg) vẫn được nhiều người chuộng nuôi. Ngựa đực, dù sức thồ mạnh hơn, dẻo dai hơn ngựa cái (khoảng 150kg), nhưng đưa chúng đi thồ hàng là phải đi một mỉnh, bởi nếu ngựa đực mà gặp ngựa cái là theo nái, có những con đực đã hất cả tạ chuối để theo một nái ngựa mà nó phát hiện trên đường từ rẫy về nhà Ngựa cái từ 25-30 tuổi thì khả năng thụ thai rất thấp hoặc con ngựa đực giống chỉ có một "cà" (tinh hoàn) nên khả năng gây thụ thai không cao Nhiều con xé toạc cả hàng rào người, bỏ trường đua thoát ra ngoài theo tiếng hí của bạn tình hoặc chỉ lững thững chạy sau để ngắm những con ngựa cái một vài ngựa đực không chịu đua, chỉ chạy sau xem các con nái, các địa phương đều chọn ngựa cái để dự hội. Dù nhiều năm lên trường đua, nhưng một số ngựa cái mỗi khi nghe ngựa bên ngoài hí vang là vượt qua hàng rào người thoát ra ngoài.
Dáng ngựa
Ngựa Phú Yên mặt dài, xương xương, không nhiều thịt là ngựa tốt, nếu mặt đầy thịt, yếm cổ to bự là ngựa không tích cực. Mao quăn là ngựa bền, bụng suôn không bầu thì không bị sa tiền. Ngựa một dái không bền, ngựa có ông chân tròn, thẳng như ống sậy, ốm là ngựa hay. Cổ chày đứng, con đỉa sâu là ngựa hay. Móng đổ, ngựa không ê. Móng chén (móng tròn) chạy nhanh hơn. Móng dép (móng rộng) chạy không nhanh, thông thường xoáy ngựa ở phía trước là tốt, phía sau không được tốt. Ba xoáy trước mặt hình tam giác ít khi kiếm có, là ngựa hiền và sang. Bốn xoáy nơi bốn cổ chày (tứ trụ) là ngựa hoang, nhưng gặp đúng chủ là ngựa quý. Xoáy kẹp cổ, hai bên nơi ức không tốt. Xoáy nơi gáy, xoáy hoét (quét), nhìn thấy xấu nhưng không sao. Ngựa có xoáy đùi hay đá vặt, đá bóng, tức là thấy bóng thì đá.
Dù ngựa sắc gì hễ nhỏ con đều gọi là ngựa cu. Ngựa mập quá đâm ra chậm chạp gọi là ngựa nục. Ngựa có một số tật. Như Ngựa sa tiền là lúc đi thỉnh thoảng bị chúi tới trước. Ngựa đâm thường hay đâm vô lề đường. Ngựa trớ là ngựa nhát, hay tràng tránh. Ngựa chứng là ngựa ít muốn tuân phục người cỡi, không chịu cương, chồm lên cao, nhảy dựng hoặc chưa chi đã cất chạy. Người mới tập hoặc cỡi yếu không dám cỡi ngựa chứng. Những con ngựa chạy nhanh chân dài hơi mới là ngựa bền. Khi ngựa chạy đã oải, chạy hết nổi ấy là ngựa bết. Ngựa bở là ngựa dở, chỉ chạy được một đoạn ngắn rồi bết.
Tốc độ nhanh chậm của ngựa gọi là nước. Cho ngựa chạy lúp xúp là nước kiệu nhỏ, nhanh một chút là kiệu lớn. Chạy nhanh là phi (như bài hát "Ngựa phi đường xa"), ở nông thôn cũng gọi là tế. Phi, tế thật nhanh, phóng từng cặp chân bước thật dài gọi là sải. Nhảy chồm hai chân trước lên là cất (cất vó, tung vó). Nước hay là những con ngựa chạy chân reo, hai chân xuống, hai chân lên, nghe như nhịp gõ cây, như điệu nhạc. Ngựa chạy chân ba, ba chân xuống một chân lên không hay bằng vì hơi bị tức. Ngựa cưỡi thường được chăm sóc bề ngoài nhiều hơn, hớt bờm hớt gáy cho đẹp. Có con ngựa nhẹ cương, giật sơ đã chạy, có con ngựa nặng cương phải giật mạnh và giục liên hồi.
Sắc lông
Ngựa Phú Yên có sắc lông tính từ nhạt lên đậm có:
- Ngựa bạch sắc trắng, còn gọi là ngựa hạc, ngựa hạc thì dân quê không chuộng, có lẽ vì quan niệm đó là sắc ngựa chỉ thích hợp với vua chúa.
- Ngựa kim là trắng có pha một ít màu xám thành trắng mốc. Kim lem là đen và trắng trộn thành hơi lem lem. Kim lân là sắc kim có từng chùm lông đen xen lộn. ** Kim than là ngựa có thêm sắc đen nhiều hơn. Ngựa kim than màu pha tạp cũng không bền.
- Ngựa bích lông màu trắng có hơi pha xanh.
- Ngựa đạm thì có màu vàng và màu trắng lẫn lộn. ** Đạm chỉ là ngựa đạm trên lưng có đường chỉ.
- Ngựa hởi là đã có pha một chút hồng, chót chân đen. Dân quê ưa ngựa hởi. ** Hởi đồng giống như màu đồng nhạt. Hởi đồng thêm xoáy tứ trụ thì quý vô cùng.
- Ngựa hồng màu hồng tươi. Ngựa hồng cũng được ưa chuộng
- Ngựa séo là ngựa không hẳn là hồng, không hẳn hởi, không hẳn đạm, khô khô bạc bạ.
- Ngựa tía là ngựa có màu đậm hơn màu hồng, có pha nâu thành đỏ hườm. Ngựa tía cũng được ưa, có lẽ đây là sắc lông phổ thông hơn hết. Với giống ngựa tía thì đực hay nái thì dáng vóc cũng gần như nhau. Ngựa Phú Yên ngày trước nuôi khắp các huyện, nhiều hơn là ở huyện Sơn Hòa (làng Củng Sơn nay là thị trấn Củng Sơn và cao nguyên Vân Hòa nay là các xã Sơn Xuân, Sơn Long, Sơn Định), huyện Đồng Xuân (làng Phú Xuân nay thuộc xã Xuân Phước và làng Phước Long nay thuộc xã Xuân Long), huyện Tuy An (làng Chí Thạnh nay thuộc thị trấn Chí Thạnh, các làng Hòa Đa, Phú Long nay thuộc xã An Mỹ). Từ các nơi này phân phối ra nhiều nơi trong tỉnh và ngoài tỉnh.
Trước khi có quốc lộ 1 và đường sắt xuyên Việt, người xứ Nẫu thường đi lại bằng kiệu, ngựa (nhà giàu, khá) còn nhà nghèo thì chủ yếu đi bộ, nhiều vùng miền núi, đồng quê xứ Nẫu, ngựa vẫn còn lam lũ cùng người cưỡi, thồ hàng, kéo xe Lang thang từ vùng Tuy Hòa, Tuy An, Sơn Hòa, Đồng Xuân (Phú Yên) đến vùng Vân Canh, An Lão, An Nhơn, Phù Cát (Bình Định), vó ngựa vẫn lóc cóc trong nắng sớm mưa chiều. Đi đâu cũng gặp ngựa, làng nào ở Phú Yên cũng nuôi ngựa bầy. Đàn ông, đàn bà đều cưỡi ngựa. Hồi trước thì tải hàng ra trận, sau 1975, ngựa vùng này vẫn còn dùng nhiều trong việc kéo lương thực cho các kho nhà nước. Rồi kéo gỗ, vật liệu cát nhà, xây kênh mương, chở khách, chở hàng ra chợ đều dùng ngựa. Sau đó các loại xe cộ cứ cạnh tranh, thay dần xe ngựa.
Dẫu lặng lẽ một góc nhưng thị trường ngựa vẫn còn khá xôm tụ. Bởi nghề ngựa kéo, ngựa thồ, ngựa du lịch vẫn duy trì ở nhiều tỉnh Nam Trung Bộ, Chủ yếu lúc này, săn mua ngựa ở vùng núi trong tỉnh. Trước đây, có mua ngựa từ Đà Lạt nhưng giá hơi cao, mua gom về hơn chục ngựa cả lớn lẫn bé, phần lớn là các giống đạm, tía, hồng Lúc này, ngựa nhỏ (cỡ 6 tháng tuổi) có giá khoảng 10 triệu đồng/con, ngựa từ 3 năm tuổi (chạy thồ, kéo xe được) thì từ 15–20 triệu đồng/con tùy tướng tá "đẹp, xấu", những vùng bán sơn địa, miền núi Phú Yên, nghề ngựa thồ vẫn còn phổ biến thu hút hàng ngàn người dân địa phương và du khách gần xa đã đến xem Hội đua ngựa truyền thống gò Thì Thùng. Là một trong hai hội đua ngựa còn duy trì tại Việt Nam, Hội đua ngựa truyền thống gò Thì Thùng đã trở thành hoạt động văn hóa, thể thao đầu xuân được du khách gần xa yêu thích
Hội đua ngựa truyền thống Gò Thì Thùng là một trong bốn lễ hội lớn diễn ra trên địa bàn huyện. Đây cũng là một trong những lễ hội độc đáo của Phú Yên và vùng Duyên hải miền Trung. Người điều khiển (kỵ sĩ) là những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn chứ không phải là tay đua chuyên nghiệp, một số sợ đau mông phải dùng bao bố lót trên lưng ngựa thay yên. Dù vậy, các tay đua vẫn hết mình tham gia lễ hội trong sự cổ vũ nhiệt tình của khán giả. Tuy không phải là những tay đua chuyên nghiệp nhưng các kỵ sĩ nông dân vẫn lèo lái cuộc đua đầy kịch tính, hấp dẫn hàng nghìn khán giả. Nhiều kỵ sĩ không quen phi nước đại bị té, có người bị thương do bị ngựa giẫm.
Trong văn hóa
Ngựa Phú Yên đã từng vang bóng một thời và để lại nhiều dấu ấn trong ngôn ngữ, văn chương, sách sử. Ở vùng này, ngọn cỏ quá thơm trên môi những con ngựa truyền thống, nào ngựa vua, ngựa quan, ngựa tướng, ngựa binh, ngựa thồ, ngựa trạm. Con ngựa góp công sức không ít cho cuộc định danh đất võ, con ngựa cũng xuất hiện không ít trong cỗ xe văn chương, và nó trở thành hình ảnh không thể thiếu ở vùng thành Đồ Bàn-Hoàng Đế, thưởng thức tiếng nhạc ngựa, ngồi trên cỗ xe ngêu ngao
Các hồi ký của những chiến sĩ cũng thường nhắc đến vai trò của ngựa Phú Yên và gạo Tuy Hòa trong chiến dịch Tây Nguyên thời chống Pháp. Trong Miền đất huyền thoại, nhà thơ Văn Công viết: "Từng đợt dân công, hàng vạn trai gái Kinh Thượng sức người, sức ngựa lai thồ hàng vạn tấn gạo muối vượt dốc Mõ, dốc Chanh, dốc Ai–nu, đèo Ma–lố đáp lời kêu gọi của chiến trường". Còn trong cuốn sách lịch sử "Phú Yên–30 năm chiến tranh giải phóng" cũng nhắc đến hình ảnh ngựa Phú Yên thồ gạo Tuy Hòa phục vụ các chiến trường: "Hàng trăm đoàn dân công, ngựa thồ ngày ngày vượt suối, trèo đèo, dầm mưa dãi nắng vận chuyển gạo, thực phẩm, đạn dược lên chiến trường Đắc Lắc. Năm 1951, tỉnh đã huy động 46.364 người và 1.416 con ngựa đi vận chuyển lương thực, đạn dược ra chiến trường với tổng số 639.951 ngày" và thành tích chỉ huy cùng một lúc nhiều con ngựa thồ đưa được nhiều hàng tới nơi an toàn đúng quy định.
Ca dao
Một số ca dao tục ngữ ở vùng Phú Yên và miền Trung có liên quan đến ngựa:
- "Ai đi đường ấy hôm nay/Ngựa hồng ai cỡi dù tay ai cầm? Ngựa hồng đã có tri âm/Dù tay đã có người cầm thì thôi"
- Con ngựa tía ăn quanh đèo Cả/Vầng nguyệt đêm rằm bóng ngã về đông/Chẳng thà tôi giục mã về không/Chớ không đành cướp vợ tranh chồng người ta
- Chiều chiều mượn ngựa ông Đô/Mượn kiều chú lính đưa cô tôi về/Cô về chẳng lẽ về không/Ngựa ô đi trước ngựa hồng đi sau/Ngựa ô đi tới Quán Cau/Ngựa hồng thủng thẳng đi sau Gò Điều
- Dùng dằng như ngựa giùn cương/Thấy duyên muốn kết sợ người thương buổi đầu
- Đường dài ngựa chạy biệt tăm/Người thương có nghĩa trăm năm cũng chờ
- Ngựa hay chẳng quản đường dài/Nước kiệu mới biết tài trai anh hùng
- Ngựa ô cột trước ao hồ/Đói thì chịu đói cỏ khô không thèm
- Ngựa ô chẳng cỡi cỡi bò/Đường ngay không chạy, chạy dò đường quanh
- Ngựa ô chân mỏng gót hài/Có hay cho lắm thấy đường dài cũng kiêng
- Con ngựa chạy giữa đường sao nói con ngựa cất?/Con cá bán giữa chợ sao nói con cá thu?