✨Ngựa Đà Lạt
nhỏ|phải|Một con ngựa cỏ ở Đà Lạt Ngựa Đà Lạt là quần thể ngựa được nuôi ở vùng Đà Lạt, Lâm Đồng, đây là một quần thể ngựa đặc biệt gắn liền với nét văn hóa của vùng đất Đà Lạt, Lâm Đồng đặc biệt là những chiếc xe thổ mộ. Những con ngựa bản địa ở đây nguyên thủy thuộc giống ngựa cỏ và sinh sống tự do trong môi trường thiên nhiên, người Lạch gọi ngựa là A Sêh có nghĩa là ngựa của người Lạch
Người Lạch có tài thuần phục ngựa, ở xứ sở này, những đứa trẻ lên năm, lên bảy đã biết cưỡi ngựa cỏ rong chơi, biết ngã cùng ngựa, trẻ em xã Lát biết cưỡi ngựa từ rất sớm, trai gái 13, 14 tuổi là giong cương băng rừng vượt suối trên lưng ngựa không yên. Người Lạch còn xem loài ngựa là niềm tự hào qua câu phương ngôn truyền miệng "dấu chân người Lạch tròn", người Lạch khi lên nương, hay khi vào rừng săn con thú đều ngồi trên lưng ngựa nên dấu chân người Lạch có hình tròn. Ngày nay, quần thể ngựa ở Đà Lạt được bổ sung thêm các giống ngựa lai để đa dạng quần thể và phục vụ cho nhu cầu làm du lịch.
Đặc điểm
Ngựa cỏ
nhỏ|phải|Một con ngựa ở Đà Lạt với màu lang (ô truy) Loài ngựa bản địa này được gọi bằng cái tên dân dã là ngựa cỏ. Ngựa cỏ ở vùng này thấp, nhỏ nhưng rất nhanh nhẹn và khỏe. Trọng lượng trung bình của một con ngựa trưởng thành chỉ khoảng từ 200–250 kg. Giới nuôi ngựa ở Đà Lạt dùng tên ngựa cỏ để ám chỉ ngựa của đồng bào thiểu số ở xã Lát, Đạ Sar (Lạc Dương), tuy thân hình chúng nhỏ nhưng lại dẻo dai, bền bỉ phù hợp để thồ hàng và kéo xe trên mọi địa hình hiểm trở.
Các phu xe ở Đà Lạt, Đơn Dương và Phan Rang, Bình Phước vẫn đến Bon Đưng-xã Lát, Hòn Bồ-Đạ Sar để tầm mã một con ngựa cỏ trên đường bằng có thể kéo hơn một tấn hàng, đường dốc Đà Lạt hay đường lầy lội chúng vẫn kéo được 7-8 tạ. Chọn những con ngựa từ 4-6 tuổi vì đó là tuổi sung sức nhất, dấu hiệu để nhận biết chúng là vừa mọc đủ răng và răng trắng đều, mặt khác, cổ dài, gân to, thịt săn, bờm dày, bụng gọn, ngực nở, chân thẳng và thon chắc. Nên cho ngựa chạy thử mấy vòng quanh núi, nếu vẫn thở đều, không khục khắc là đạt.
Ngựa Đà Lạt có dáng vẻ đẹp đẽ, oai vệ mà thanh nhã, hiền lành, vì không có tên nên chúng thường được gọi tên theo sắc lông như lông màu trắng gọi là ngựa bạch, trắng chen một ít đen gọi là ngựạ kim; đen tuyền gọi là ngựa ô; đen pha đỏ tươi là ngựa vang; đen pha đỏ đậm là ngựa hồng; trắng đen pha chút đỏ là ngựa đạm, tím đỏ pha đen là ngựa tía. Có những con ngựa mới 3 tháng tuổi đã cao lộc ngộc theo nòi bố và đang dần đổi màu từ vùng mặt, tròn tuổi trở đi nó sẽ trở nên đen tuyền như mẹ. Ngựa của người Lạch dẻo dai, dũng mãnh, giỏi leo núi và ít bị bệnh nhưng lại thấp, nhỏ con, lông ngắn nên chẳng bắt mắt. Ngày nay người Lạch đã học cách phối ngựa Lạch với một số giống ngựa có nguồn gốc từ châu Âu hoặc Trung Đông để cho ra những con lai vừa có những ưu thế của ngựa bản địa vừa có vóc dáng đẹp, cao ráo, bộ lông mượt mà.
Vó ngựa trên thảo nguyên Đà Lạt với tiếng ngựa hí vang vọng một góc trời, nhanh như chớp, chú ngựa dũng mãnh tung vó lên trời, bắt đầu phi những bước thật dài, bụi tung mù mịt trong không trung. Quanh những quả đồi trống Đà Lạt, dấu chân ngựa in sâu trên nền đất, như một dấu hiệu, một biểu tượng đánh dấu lãnh thổ của chúng. Vào những lúc không phải làm việc như vào buổi sáng tinh mơ hoặc chạng vạng tối, nài ngựa thường thả chúng ra giữa thảo nguyên, trên các quả đồi vắng hay khu vực gần hồ. Chỉ những lúc như vậy, ngựa mới phô ra được cái bản tính hoang dã, dũng mãnh và đầy oai vệ của mình. Tiếng ngựa hí vang vọng một góc trời, nhanh như chớp, chú ngựa dũng mãnh tung vó lên trời, bắt đầu phi những bước thật dài, bụi tung bay mù mịt trong không trung. Dũng mãnh, sải từng bước tự tin như tổ tiên chúng trước đây từng vượt hàng vạn dặm đất đai mênh mông, núi non hiểm trở, từ nước này sang nước khác.
Lạch là tộc người nuôi nhiều ngựa hơn cả và cưỡi ngựa giỏi nhất Tây Nguyên. Hầu như nhà nào cũng nuôi ngựa, không ít gia đình nuôi hàng chục con. Bởi thế tuổi thơ của các cậu bé người Lạch đều gắn chặt với ngựa, lên năm, lên bảy đã biết cho ngựa ăn, chải chuốt, vuốt ve để ngựa thích và nghe lời mình, cưỡi ngựa rong chơi và nếm mùi ngã cùng ngựa. Sau hơn chục năm cùng nhau ngã bùn, ngã suối, chủ nhân sẽ thuộc tính nết của ngựa, đoán được những tình huống ngựa có thể ngã, các thế ngã để rồi lựa chiều tiếp đất sao cho khỏi thương vong. Đến tuổi 15-17, các chàng đã biết chọn ngựa hay và thuần dưỡng chúng.
Phải mất ít nhất 2-3 năm mới huấn luyện được chú ngựa hay: Cho ngựa dần làm quen rồi chinh phục tất cả các địa hình như sông suối, đèo dốc, những trảng bằng, sườn núi gồ ghề, hiểm trở... để có nhiều kiểu bước chân khác nhau. Cho ngựa tập luyện thường xuyên với cấp độ tăng dần để tạo sức bền, dẻo dai. Luyện cho chúng bước chạy êm rồi cách chạy nhanh nhưng vẫn giữ được thăng bằng để tránh vấp ngã. Trước mỗi kỳ thi đấu, không cho tiếp xúc với ngựa cái để khỏi mất sức hoặc ngựa lạ để khỏi học tính hoang dã, không nghe lệnh chủ. Số chiến mã được huấn luyện chuyên nghiệp rất ít. Ngựa cũng như người, phải biết vuốt ve nó từ nhỏ thì nó mới thích, nghe. Dạy ngựa khó, phải ngã bùn, ngã suối với nó nhiều lần thì mới thuần được. Mỗi lần đi rẫy thăm trâu, đi rừng thăm ngựa là bọn trẻ tụ họp đua ngựa.
Trước đây, lũ ngựa cỏ người dân tộc Lạch phải thồ hàng về tận dưới xuôi để đổi lấy nước mắm, cá khô nên cần sức bền hơn là sức mạnh cấp thời. Người ta dắt ngựa xuyên rừng về xuôi đổi muối. Ngựa và người đi cả vài ba ngày trời mới đến nơi. Ngựa thồ hàng. Người đi bộ. Bước chân bỏ lại những cánh rừng già, bỏ lại những dòng suối sâu, những con suối cạn, nay, người Lạch dưới chân núi Langbian nuôi ngựa chỉ để làm cảnh. Bởi, các loại hàng hóa, nhu yếu phẩm gì gì đó thì đã có xe đưa đến tận bếp nhà sàn. Đối với ngựa nuôi làm du lịch thì thức ăn gồm cỏ, cám tổng hợp và mật đường là thức ăn chủ đạo của ngựa du lịch. Ngoài ra chúng còn được chủ thường xuyên bồi dưỡng thức ăn giàu chất dinh dưỡng để giữ cho bộ lông luôn óng mượt và được chăm sóc chu đáo. Chi phí lương thực bình quân khoảng 80.000 đồng/con/ngày, sáng nào cũng phải thức dậy sớm tắm rửa cho ngựa, cho chúng ăn cám, đường, mật và cỏ tươi thật no để chúng khỏi trở chứng khi làm việc.
Đua ngựa
Những con ngựa ở Đà Lạt còn được người dân bản địa cho tham gia các cuộc đua ngựa, đặc biệt là đua ngựa không yên. Đua ngựa không yên đã được khởi xướng ở Lang Biang từ hơn nửa thế kỷ trước và trở thành nét văn hóa độc đáo của người Lạch. Mỗi năm có 3-4 cuộc đua lớn. Ngày nay xe ngựa chỉ dùng để chở du khách. Tiếng vó ngựa lốc cốc trên những con dốc gập ghềnh nơi thành phố cao nguyên này từ hàng trăm năm nay đã trở nên một hình ảnh quen thuộc trong tiềm thức của nhiều người. Những chiếc xe ngựa gắn bó với người Đà Lạt trở thành một phương tiện lao động và cũng là nét đặc trưng của miền đất này.
Trên xứ Đà thành tĩnh lặng, xa xăm, tiếng vó ngựa vẫn gõ giòn trên dốc vắng và cả tiếng lục lạc xao động miền ký ức, là nét văn hóa, hình ảnh tâm thức với cái thú, khi mỗi buổi chiều ngồi vắt vẻo bên thành xe ngựa, nhìn ngắm ruộng đồng xanh mướt, tiếng vó ngựa gõ nhịp, tiếng lục lạc len trong gió, từ khi có chương trình xây dựng nông thôn mới, hầu hết đường làng, đường nhánh ra đồng đã được trải bê-tông. Tiếng vó ngựa gõ giòn thêm. Tiếng vó ngựa lốc cốc trên đường phố, Đà Lạt nửa đêm lục lạc ngựa về là những thanh quen thuộc. Chiếc xe ngựa đã gắn bó với người Đà Lạt và trở thành nét độc đáo không thể thiếu trong lòng du khách, không thể thiếu nhịp phách vó ngựa gập ghềnh.
Trước thời vua Bảo Đại, vó ngựa Đà Lạt đã gõ nhịp trên những con đường dốc hoang sơ chạy quanh thành phố. Thời đó, người ta gọi là xe thổ mộ, có hai băng ghế dọc, bánh gỗ và bạc đồng. Sau đó một thời gian, hàng loạt xe ngựa xuất hiện trên thành phố. Ngựa chở hàng từ nhà vườn tỏa đi các chợ, đưa học sinh đến trường, ngựa giúp du khách qua những chốn đẹp. Không giống các phương tiện khác, xe ngựa dung hòa con người trong một không gian mở, không gian của cộng đồng. Đến những năm 30, cung đường La-mác-tin vòng quanh hồ Xuân Hương có một đường chính, hai đường phụ dành cho người cưỡi ngựa và đi xe đạp, vó ngựa đã gắn với Đà Lạt từ thuở đó.
Ngày xưa xe ngựa nhiều, một xe nuôi cả nhà. Giờ chỉ còn khoảng 30 chiếc của những người vẫn giữ nghề, giữ lại làm du lịch, rước dâu, đóng phim. Cung đường đi cũng đã ngắn dần, không còn rong ruổi cùng du khách như xưa nữa. Thời huy hoàng của nghề xe ngựa là vào thập niên 90 thế kỷ trước, ở đây có trên dưới 500 xe. Thời hoàng kim, vào những năm 70 của thế kỷ trước, Đà Lạt được xem là vương quốc của xe ngựa với khoảng 500 chiếc. Lúc ấy, các bác xà ích làm ăn rất thịnh vượng, đi cả ngày, ngựa chạy đến chồn cả chân mà làm vẫn không hết việc. Ngựa nuôi cả gia đình, một ngày làm xe ngựa bằng sáu công làm hợp tác xã, cũng giống những xà ích ở Đà Lạt, kinh tế của các gia đình này chủ yếu nhờ vào sức ngựa.
Sau ngày 30/4, xe ngựa bắt đầu đi vào làm ăn hợp tác, ban đầu cũng rất khá nhưng về sau thì dần dần sa sút cùng với sự xuất hiện ngày càng nhiều những phương tiện giao thông hiện đại, nhưng khi kinh tế phát triển, nhiều phương tiện hiện đại đã lấn át những chiếc xe thổ mộ, nhiều người đành phải bán xe, bán ngựa chuyển sang nghề khác. Theo sự phát triển của xã hội, chức năng của ngựa đã bị thu hẹp và số lượng ngựa trên cao nguyên Lâm Viên cũng giảm đi nhiều
Năm 1986, có cá nhân đứng ra thành lập HTX xe ngựa với 250 chiếc, chia làm 4 đội và hoạt động rất sôi nổi. Năm 1999, Thành phố chủ trương cấm xe thô sơ và súc vật vào trung tâm Đà Lạt và hồ Xuân Hương. Ngựa mất bến đậu, mất cả lối đi, cái nghề xe ngựa cũng từ đó lụi dần. Năm 1995, chỉ còn 40 người là quyết tâm sống chết với cái nghề được xem đã đến lúc hết thời này. Cho đến nay, toàn thành phố chỉ còn chưa đầy 10 chiếc xe ngựa, tất cả đều chỉ phục vụ chở khách du lịch. Giờ chỉ còn khoảng 50 xe. Số còn lại cho ngựa thay vì kéo hàng hóa như xưa thì nay phục vụ du khách. Nhưng chỉ ở những tuyến đường có mật độ giao thông không lớn, độ dốc không cao; tại những khu vực sinh thái, dã ngoại, các khu vực ngoại vi thành phố để du khách có dịp thăm thú, ngắm cảnh như quanh bờ hồ Xuân Hương, đường đến Suối Vàng và trong khuôn viên các khu du lịch nổi tiếng
Thực tế hiện nay xe ngựa chủ yếu phục vụ du khách, nên chỉ có thể hoạt động khi mùa du lịch đến. Đà Lạt nếu vắng bóng loại hình du lịch ngựa và xe ngựa thì sẽ kém thú vị và không còn nét đặc trưng của du lịch Đà Lạt. Nhưng để tăng thêm sự hấp dẫn cần nghĩ đến việc nhập thêm những giống ngựa tốt, có tầm vóc vạm vỡ, oai phong, song song đó cần nâng cấp các cỗ xe thêm tiện nghi, hiện đại và an toàn
Du lịch
nhỏ|phải|Một con ngựa ở Đà Lạt đang phục vụ cho du khách cưỡi và chụp ảnh Người Đà Lạt đã đưa ngựa vào khai thác du lịch. Thường thì chúng được thuần hóa từ giống ngựa hoang dã để phục vụ du khách. Mỗi thắng cảnh nổi tiếng ở Lâm Đồng đều có trên dưới chục con ngựa sạch sẽ chải chuốt, luôn trong tư thế sẵn sàng phục vụ. Địa hình Đà Lạt với thế núi trập trùng, uốn lượn trên những con dốc dài, một thời in đậm dấu ấn của những chiếc thổ mộ cần mẫn ngày đêm gõ nhịp. Sau quãng thời gian dài từng đầu xe tự mưu sinh đầy rủi ro, bất trắc, loại hình du lịch xe ngựa sẽ được chú trọng để du khách thêm thú vị hơn khi đến với thành phố này. Các thác nước Cam Ly, Datanla, Prenn, Vườn hoa thành phố luôn sẵn có những con ngựa đẹp thắng vào cỗ xe trang trí rực rỡ mời chào du khách.
Tiêu chuẩn đầu tiên để người ta chấp nhận nó vào trong đội ngũ những nhân tố làm du lịch là phải tốt mã. những con bạch cao to đẹp mã ra đứng ở bờ hồ Xuân Hương phục vụ du khách. Lúc này, con ngựa được gắn thêm mấy chiếc lông chim trên đầu trông ra dáng. Tuyển khá kỹ là đội ngựa ở Thung lũng Tình Yêu. Một số tuấn mã thì được trang bị thêm những chiếc xe thổ mộ đẹp lộng lẫy như chiếc kiệu, có thể chứa được cả chục người ngồi trên để đưa khách du lịch đi tham quan. Những con ngựa hồng, ngựa tía được giám mã tháp tùng, theo sát canh chừng bảo vệ du khách chưa quen cưỡi, nhất là khi ngựa phải phi vòng quanh những khu vực trò chơi quá náo nhiệt, hoặc phát ra tiếng động lớn dễ làm ngựa giật mình hoảng sợ như đi xe lửa, tập trận giả, bắn súng sơn. Nài ngựa (thường là chủ của chúng) sẽ điều khiển chúng quỳ xuống, đứng lên, chạy thong dong, phi nước đại và dừng đúng lúc.
Cưỡi ngựa có 2 dạng là cưỡi các đồi dốc và ngựa xe với số lượng người đông. Những con ngựa này được thuần hoá, được trang bị một bộ khớp (tức yên) tương xứng với cái mã của nó (có giá khoảng 3 triệu đồng) để làm người mẫu cho du khách đứng gần hoặc cưỡi, dắt bộ dạo để chụp hình lưu niệm (tại các điểm tham quan du lịch như hồ Xuân Hương, Thung Lũng Tình Yêu, đồi Mộng Mơ, hồ Than Thở). Giá chụp một kiểu hình trên lưng ngựa ở Đà Lạt trung bình là 3.000 đồng, thuê cưỡi giá 70.000 đồng/giờ.