✨Ngư Huyền Cơ

Ngư Huyền Cơ

Ngư Huyền Cơ (chữ Hán: 魚玄機; 844 - 871), tự Ấu Vi (幼薇), lại có tự Huệ Lan (惠蘭), là một tài nữ trứ danh và là một kĩ nữ tuyệt sắc vào thời kì Vãn Đường trong lịch sử Trung Quốc. Về sau, do hoàn cảnh gia đình, bà buộc phải xuất gia làm đạo sĩ.

Nổi danh là một tuyệt sắc giai nhân và là một nữ thi nhân tài năng, bà từng là tiểu thiếp của một nhà quyền quý, nhưng sau bị phụ bạc nên xuất gia làm đạo sĩ, giao du với nhiều nho sinh mặc khách, phóng đãng một thời. Cuối cùng, do bị khép tội giết tỳ nữ, bà bị xử trảm khi tuổi đời còn chưa quá 30 tuổi. Bà nổi tiếng với câu thán: "Dị cầu vô giá bảo, nan đắc hữu tình lang" (易求無價寶,難得有情郎; dễ tìm được bảo vật vô giá, khó có được người chồng có tình cảm). Về sau, câu cú thán này lưu danh thiên cổ, được hậu nhân lấy đó mà tâm đắc tài nghệ của bà.

Thời kì nhà Đường có 4 tài nữ được đương thời xưng là Đường triều Tứ đại nữ thi nhân (唐朝四大女诗人), bao gồm: Tiết Đào, Ngư Huyền Cơ, Lý Quý Lan và Lưu Thái Xuân.

Tiểu sử

Thân thế của Ngư Huyền Cơ cho đến nay vẫn còn tương đối còn mơ hồ. Ước chừng, Ngư thị được sinh ra vào năm Hội Xương thứ 4 (844) tại kinh đô Trường An, thời kì Đường Vũ Tông. Cha bà là một trí thức, từng ôm mộng công danh nhưng không thành, vì thế bao nhiêu tâm huyết họ Ngư đều dồn hết cho cô con gái độc nhất của mình. Ngay từ nhỏ, Huyền Cơ đã được cha dạy viết chữ, làm thơ.

Tuy nhiên, khi Huyền Cơ chưa đầy 10 tuổi, cha bà đã qua đời. Để kiếm sống, Huyền Cơ phải đến một kỹ viện giặt quần áo thuê. Tuy vậy, bà rất hoạt bát, thanh tú, mắt to lông mày mảnh dẻ, da dẻ trắng ngần, nghiễm nhiên có phong thái một tiểu mỹ nhân. Khi lớn lên, Ngư Huyền Cơ xinh đẹp như hoa, quyến rũ mê hồn. Năm Huyền Cơ vừa tròn 15 tuổi, Lý Ức (李億; tự là Tử An 子安), vị trạng nguyên trong kỳ thi năm ấy, đã đến kỹ viện hỏi cưới bà về làm thiếp. Trong thời gian mới kết hôn, đôi kim đồng ngọc nữ Lý Ức và Huyền Cơ sống một khoảng thời gian tươi đẹp khiến người ta đắm say.

Theo Đường tài tử truyện (唐才子傳), phu nhân của Lý Ức là Bùi thị vì gia thế hiển hách, xuất thân từ danh gia vọng tộc ở Sơn Tây, nên khinh rẻ Huyền Cơ thân phận nghèo hèn, khiến bà thường xuyên chịu thiệt thòi. Lý Ức sợ vợ lại còn lưu luyến Huyền Cơ, nên không còn cách nào khác, Lý Ức buộc Huyền Cơ đành phải về Giang Lăng sống nhờ nhà họ hàng. Về sau, đợi mãi mà Huyền Cơ không thấy Lý Ức đến đón mình, bà đành một mình trở về Trường An. Thế nhưng, Lý Ức lại vẫn còn sợ Bùi thị ghen tuông, đành lén sắp xếp cho bà xuất gia tại Hàm Nghi quán (咸宜觀), một đạo quán do Hàm Nghi công chúa của Đường Huyền Tông lập nên. Nữ đạo sĩ thì từ thời xa xưa đã có, tuy nhiên, nữ đạo sĩ ở thời Đường thì lại rất khác. Một số người xuất gia làm đạo sĩ là vì muốn tu hành; một số khác, thường là phần đông, lại lấy việc xuất gia làm cái cớ để họ có một cuộc sống tự do và thoải mái hơn. Những nữ đạo sỹ loại này vì thế không giống kỹ nữ, cũng chẳng giống những cô gái khuê các thông thường, họ là sự tổng hợp của cả hai kiểu người nói trên. [Huyền Cơ] chính là đạo hiệu kể từ khi Ngư thị xuất gia.

Sau khi xuất gia tu đạo không bao lâu, Huyền Cơ gặp được một "Người đàn ông hào hiệp" khiến cuộc sống của bà hoàn toàn thay đổi. Một văn nhân đời Đường tên là Hoàng Phủ Mai (皇甫枚) có ghi lại trong Tam thủy tiểu độc (三水小牘) giai đoạn này của Huyền Cơ rằng: "Nhờ sự chu cấp của người đàn ông hào hiệp, Huyền Cơ du ngoạn khắp nơi. Đồ trang sức quý hiếm thì không hề thiếu. Lại suốt ngày đánh đàn, làm thơ, suốt ngày quấn quýt, vui vẻ". Người đàn ông hào hiệp khiến cuộc sống nữ đạo sĩ của Huyền Cơ thay đổi, Hoàng Phủ Mai không hề nói rõ. Người đời sau căn cứ vào những bài thơ của Huyền Cơ mà dự đoán rằng, người đàn ông bí ẩn này chính là Lưu Đồng (刘同) - Tiết độ sứ Hà Đông.

Vào thời nhà Đường, Tiết độ sứ nắm giữ rất nhiều binh quyền, có thể coi như Lãnh chúa của một địa phương, ngay cả Hoàng đế tại Trường An cũng phải nể nang vài phần. Được một người có quyền lực như vậy che chở khiến tên tuổi của Ngư Huyền Cơ càng thêm lan rộng. Những kẻ đọc sách và ôm mộng công danh, trước khi về kinh khảo thí không ai là không quen biết với bà. Cũng theo thuyết này, khi Lưu Đồng được phong làm Tiết độ sứ tại Tây Xuyên, ông đã đề nghị mang Ngư Huyền Cơ đi theo nhưng bị Nữ đạo sĩ này từ chối. Thường ngày, Ngư Huyền Cơ vẫn qua lại với những tiến sĩ, vừa là tình nhân lại vừa là bạn xướng họa thi văn. Xuất gia nhiều năm và trải qua hàng trăm mối tình khác nhau, danh tiếng phong lưu của bà nổi danh một thời ở Trường An.

Năm Hàm Thông thứ 12 (871) triều Đường Ý Tông, do mắc tội giết chết tỳ nữ Lục Kiều (綠翹), Ngư Huyền Cơ bị Kinh Triệu Phủ doãn là Ôn Chương (温璋) khép tội và xử tử hình. Bà qua đời khi còn chưa quá 30 tuổi.

Câu chuyện với Ôn Đình Quân

left|thumb|Ôn Đình Quân Trong cuộc đời của mình, Ngư Huyền Cơ qua lại với rất nhiều người đàn ông, trăng hoa thì nhiều nhưng đá vàng cũng không hề ít. Tuy nhiên, có lẽ mối tình được nhiều người nhắc tới nhất chính là câu chuyện tình nhiều nước mắt giữa Huyền Cơ và Ôn Đình Quân, người bạn vong niên đồng thời cũng là người thầy dạy thơ của cô.

Ôn Đình Quân là một văn nhân nổi tiếng thời Vãn Đường, là người đặt nền móng quan trọng cho thể loại từ, một thể loại văn học mà về sau rất phát triển dưới thời nhà Tống. Ông cùng là tiến sĩ đỗ khoa thi với Lý Ức. Dù đường công danh chẳng mấy suôn sẻ, song văn tài của Ôn Đình Quân lại vang khắp xa gần, không ai có thể đè nén nổi. Dù tài năng nổi tiếng, song tướng mạo Ôn Đình Quân tương truyền rất xấu xí.

Ông Đình Quân gặp Ngư Huyền Cơ lần đầu tiên khi Huyền Cơ còn đang giặt quần áo cho một kỹ viện ở thành Trường An. Lúc bấy giờ, Ngư Huyền Cơ chỉ mới khoảng 12 tuổi. Ôn Đình Quân thấy Huyền Cơ còn nhỏ mà thông minh lanh lợi nên nhận Huyền Cơ làm đệ tử, đồng thời giúp tiền bạc cho mẹ con cô sinh sống. Khi ấy, Huyền Cơ nhận sự chăm sóc của Ôn Đình Quân như một người thầy, một ân nhân của mẹ con mình.

Tới năm Ôn Đình Quân 50 tuổi, ông đỗ tiến sĩ nhưng do làm loạn trong trường thi nên chỉ được bổ nhiệm một chức huyện úy nhỏ bé ở tận vùng Hồ Bắc. Lúc này, Huyền Cơ cảm kích tấm lòng, thán phục tài năng, từ lâu đã gởi gắm con tim non trẻ nơi người thầy nhưng không biết bày tỏ thế nào, nên trước khi Ôn Đình Quân lên đường, Huyền Cơ liên tục gửi thư bày tỏ tình cảm của mình. Đình Quân tài tình phi phàm nhưng diện mạo cực xấu nên tuy thương yêu Huyền Cơ nhưng vẫn giữ nguyên tắc, không dám vượt qua ranh giới mà giới thiệu Huyền Cơ cho Lý Ức, cho nên Lý Ức mới đến xin lấy Huyền Cơ làm tiểu thiếp. Dẫu vậy, Huyền Cơ và Ôn Đình Quân vẫn hay sáng tác thơ, trao đổi tin tức với nhau.

Tương truyền, sau khi nghe tin cái chết của Huyền Cơ, Ôn Đình Quân từ đó thần trí thẫn thờ, hay giao du qua lại với các kỹ nữ. Người ta nói rằng, sở dĩ như vậy là do Ôn Đình Quân tự trách mình năm xưa đã đẩy Huyền Cơ vào chỗ bi kịch.

Tác phẩm

thumb|Bức họa Nguyên Cơ thi ý đồ (元機詩意圖) của họa sĩ đời Thanh tên [[Cải Kỳ (改琦).]] Ngư Huyền Cơ biết viết thơ văn, nên tác phẩm tương đối nhiều. Do về sau mắc tội, mà cũng dần tiêu tán, chỉ còn chép lác đác trong một số sách vở. Số lượng bài thơ còn lại của bà khoảng 49 bài, đều được tập hợp trong tập Đường nữ lang Ngư Huyền Cơ thi (唐女郎鱼玄机诗) thời Nam Tống. Tại Văn uyển anh hoa (文苑英华) có chép thêm một bài Chiết dương liễu (折杨柳), đã nâng tổng số bài thơ của bà lên là 50 bài.

Khi Ôn Đình Quân nhận bà làm môn đệ thi học. Buổi sơ tập, Ôn Đình Quân lấy thi đề Giang biên liễu (江邊柳; Cây liễu ven sông) để Ngư Huyền Cơ làm bài thơ theo thể ngũ ngôn. Ngư Huyền Cơ chỉ mươi phút đã viết xong:

Bài Tặng lân nữ (贈鄰女), đây là bài thơ khiến danh tiếng của Ngư Huyền Cơ vang dội nhất, với câu từ bất hủ "Dị cầu vô giá bảo, nan đắc hữu tình lang" lưu truyền nhiều đời:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Ngư Huyền Cơ** (chữ Hán: 魚玄機; 844 - 871), tự **Ấu Vi** (幼薇), lại có tự **Huệ Lan** (惠蘭), là một tài nữ trứ danh và là một kĩ nữ tuyệt sắc vào thời kì
**Hồng Ngự** là một huyện biên giới cũ thuộc tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hồng Ngự nằm ở phía bắc tỉnh Đồng Tháp, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp
**La-ngu** () là một huyện (_amphoe_) của tỉnh Satun, miền nam Thái Lan. ## Lịch sử La-ngu là một trong 3 huyện đầu tiên của Satun, ban đầu là một tiểu huyện (_king amphoe_) thuộc
**Ngũ Huyện Khê** là một chi lưu của sông Đuống, nó bắt nguồn từ địa phận ranh giới giữa xã Xuân Canh và Đông Hội thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội và chảy
**Ngu Thế Cơ** (虞世基; ? - 618), tự **Mậu Thế** (懋世), nhân vật thời Tùy Trung Quốc, người Dư Diêu Hội Kê. Anh của Ngu Thế Nam. ## Thân thế Cha là Ngu Lệ, từng
SẢN PHẨM CÓ MẶT TẠI ĐẠI LÝ ĐÀ NẴNGKem Face dưỡng da ban đêm Huyền Còdạng sệt nên dễ dàng thấm nhanh vào da, thấm nhanh vào tổ chức tế bào da, giúp da mịn
**An Phú** là một huyện cũ thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam. ## Vị trí địa lý *Phía Tây và Bắc giáp huyện Bourei Cholsar (tỉnh Takeo) và Kaoh Thum (tỉnh Kandal) của Campuchia, đường
**Ngũ Hồ Thập lục quốc** (), gọi tắt là **Thập lục quốc**, là một tập hợp gồm nhiều quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận
**Kiến Thụy** là một địa danh từng là cấp huyện thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam đến ngày 30 tháng 6 năm 2025 do chủ trương giải thể cấp huyện của nhà nước Cộng
**Hồng Ngự** là một thành phố biên giới cũ thuộc tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Thành phố Hồng Ngự hiện là đô thị loại III, trung tâm kinh tế - xã hội phía bắc của
**Hậu Lộc** là một huyện ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Địa lý phải|Bờ biển Diêm Phố ở xã Ngư Lộc Huyện Hậu Lộc nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Thanh Hóa,
**Ngũ Lạc** là một xã thuộc tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam. ## Địa lý Xã Ngũ Lạc nằm ở phía đông bắc huyện Duyên Hải, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp xã Long
Trang đầu _[[Phép giảng tám ngày_ in năm 1651 của nhà truyền giáo Alexandre de Rhodes. Bên trái là tiếng Latinh, bên phải là tiếng Việt viết bằng chữ Quốc ngữ.]] **Chữ Quốc ngữ** là
**Cai Lậy** là một huyện cũ thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Cai Lậy nằm ở phía tây của tỉnh Tiền Giang, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện
**Tân Hồng** là một huyện cũ thuộc tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Tân Hồng nằm ở phía bắc tỉnh Đồng Tháp, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp tỉnh Long
nhỏ|[[Kim quy]] **Sinh vật huyền thoại Việt Nam** gồm các loài vật trong các câu chuyện thần thoại Việt Nam, trong truyền thuyết, câu chuyện cổ tích cho đến những câu chuyện dân gian, những
**Ngư Lộc** là một xã ven biển thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Nay đã sáp nhập 5 xã Đa lộc, hưng lộc, minh lộc, ngư lộc, và hải lộc, thành Xã
nhỏ|phải|Truyền thuyết về [[Âu Cơ và Lạc Long Quân nhắc nguồn gốc "_Con Rồng cháu Tiên_", "_Dòng giống Lạc Hồng_" của người Việt]] **Huyền thoại cội nguồn** (_Origin myth_) là một loại thần thoại giải
**Đông Sơn** là một huyện cũ thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Năm 2025, huyện này được sáp nhập vào thành phố Thanh Hóa. ## Địa lý Huyện Đông Sơn nằm ở trung tâm của
**Tiếng Cờ Lao** (tự gọi: Kláo, ) là một phương ngữ của tiếng Kra thuộc hệ ngôn ngữ Tai-Kadai. Nó được nói bởi những người Cờ Lao ở miền nam Trung Quốc và miền bắc
**Tiếng Khariboli** (còn được gọi là **Dehlavi** hoặc **phương ngữ Delhi**) là phương ngữ uy tín của tiếng Hindustan, trong đó tiếng Hindi chuẩn và tiếng Urdu chuẩn là các ngôn ngữ tiêu chuẩn và
**Nhóm ngôn ngữ Kuki-Chin** (còn được gọi là **ngữ quần Mizo**, **ngữ quần** **Kukish** hoặc **ngữ quần Tạng-Miến Trung-Nam**) là một nhánh của 50 ngôn ngữ Hán-Tạng được nói ở đông bắc Ấn Độ, miền
**Hoằng Hóa** là một huyện đồng bằng ven biển cũ thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Hoằng Hóa nằm ở phía đông của tỉnh Thanh Hóa, nằm cách thành phố Thanh
**Ngũ Hà** (chữ Hán giản thể: 五河县, bính âm: wŭ hé xiàn, âm Hán Việt: _Ngũ Hà huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Bạng Phụ, tỉnh An Huy, Cộng hòa Nhân dân Trung
**Bumthang** (Dzongkha: བུམ་ཐང་རྫོང་ཁག་) là một trong 20 huyện của Bhutan. Đây là huyện có nhiều đền cổ và địa điểm cổ nhất trong các huyện của Bhutan. Huyện này có 4 thung lũng núi Ura,
**_Khải Huyền_** (hoặc **_Khải Thị_**, dịch chính xác là **Khởi Huyền, Khai Huyền, Khể Huyền**, do hiện tượng đồng âm khác tự của chữ Hán không thể hiện được trong tiếng việt đương đại nên
**Ngũ Trại** (chữ Hán giản thể: 五寨县, âm Hán Việt: _Ngũ Trại huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Hãn Châu, tỉnh Sơn Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Ngũ Trại có
**Ngũ Đài** (chữ Hán giản thể: 五台县, âm Hán Việt: _Ngũ Đài huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Hãn Châu, tỉnh Sơn Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Ngũ Đài có
**Ngu Thành** (chữ Hán giản thể: 虞城县, Hán Việt: _Ngu Thành huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Thương Khâu, tỉnh Hà Nam, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện Ngu Thành có diện
nhỏ|Phố Tạ Hiện **Khu phố cổ Hà Nội** là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô
**Núi Thành** là một huyện ven biển nằm ở phía nam tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Núi Thành nằm ở phía nam tỉnh Quảng Nam, có
**Ninh Hải** là một huyện ven biển nằm ở phía đông tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Ninh Hải nằm ở phía đông tỉnh Ninh Thuận, vị trí địa lý: *Phía bắc
**Xuyên Mộc** là một huyện ven biển cũ nằm ở phía đông bắc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Xuyên Mộc có vị trí địa
**Cô Tô** là một đặc khu thuộc tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. ## Lịch sử Cô Tô có tên cổ là **Chàng Sơn** (Núi Chàng), từ lâu đời đã là nơi cư trú ngụ của
**Người Cờ Lao**, các tên gọi khác **Gelao**, **Ke Lao**, tên tự gọi: **Klau** ( hay **người Ngật Lão**, ) là một dân tộc cư trú ở vùng nam Trung Quốc và bắc Việt Nam.
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Ngũ Phụng** là một xã thuộc huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. ## Địa lý Xã Ngũ Phụng có diện tích 5,57 km², dân số năm 1999 là 6.306 người, mật độ dân số
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
**Hữu Ngu** (chữ Hán: 有虞) là một bộ lạc cổ đại trong lịch sử Trung Quốc, được ghi nhận tồn tại từ đời Đường Nghiêu đến hết đời nhà Thương. Địa bàn sinh sống của
Tác dụng vủa Ngũ Vị Tử:- Tác dụng điều tr ị liệt dươ^ng, yếu sinh lý, xuấ^t tinh sớm- Bổ thận dương, đ ều t rị thận dương hư, tiểu đục, đau lưng, lưng lạnh-
Tác dụng vủa Ngũ Vị Tử:- Tác dụng đi ều tr ị liệt dươ ng, yế u sinh lý, x uất tinh sớm- Bổ thận dương, đi ều t rị thận dương hư, tiểu đục,
Tác dụng vủa Ngũ Vị Tử:- Tác dụng đi ều tr ị liệt dươ ng, yế u sinh lý, x uất tinh sớm- Bổ thận dương, đi ều t rị thận dương hư, tiểu đục,
Tác dụng vủa Ngũ Vị Tử:- Tác dụng điều tr ị liệt dươ^ng, yếu sinh lý, xuấ^t tinh sớm- Bổ thận dương, đ ều t rị thận dương hư, tiểu đục, đau lưng, lưng lạnh-
MÔ TẢ SẢN PHẨMMặt nạ ngủ được hiểu đơn giản là sản phẩm dưỡng ẩm, cung cấp nước cho da vào ban đêm, bổ sung dưỡng chất cho da vào thời điểm da được tái
Tác dụng vủa Ngũ Vị Tử: - Tác dụng điều tr ị liệt dươ^ng, yếu sinh lý, xuấ^t tinh sớm - Bổ thận dương, đ ều t rị thận dương hư, tiểu đục, đau lưng,
**Tiếng Ngũ Đồn** () là một ngôn ngữ creole Trung Quốc–Tạng–Mông Cổ. Nó được nói bởi khoảng 4.000 người, hầu hết được chính phủ Trung Quốc phân loại là dân tộc Monguor (Thổ). Những người
**Nhóm ngôn ngữ Gyalrong** (còn được gọi là _Jiarong_), là một nhánh của nhóm ngôn ngữ Khương của ngữ hệ Hán-Tạng, mặc dù Randy LaPolla (2003) cho rằng nó có thể là một phần
Thành phần của kem face nano cao cấp Huyền PhiHầu hết các thành phần bên trong sản phẩm đều được chiết xuất tự thiên nhiên cùng với một số hoạt chất dưỡng da lành tính,
MÔ TẢ SẢN PHẨMMặt nạ ngủ được hiểu đơn giản là sản phẩm dưỡng ẩm, cung cấp nước cho da vào ban đêm, bổ sung dưỡng chất cho da vào thời điểm da được tái
Thần [[Khorsabad. Hiện vật bảo tàng Louvre.]] Vùng **Cận Đông cổ đại** là quê hương của các nền văn minh sơ khai thời cổ đại trong khu vực gần tương ứng với vùng Trung Đông