✨Đông Sơn (huyện)
Đông Sơn là một huyện cũ thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Năm 2025, huyện này được sáp nhập vào thành phố Thanh Hóa.
Địa lý
Huyện Đông Sơn nằm ở trung tâm của tỉnh Thanh Hóa, nằm ở trong lưu vực của sông Mã, có vị trí địa lý: Phía đông giáp thành phố Thanh Hóa Phía tây giáp huyện Triệu Sơn và huyện Nông Cống Phía nam giáp huyện Quảng Xương Phía bắc giáp huyện Thiệu Hóa.
Huyện Đông Sơn có diện tích tự nhiên 82,87 km², dân số năm 2022 là 94.162 người, mật độ dân số đạt 1.136 người/km².. Huyện Đông Sơn lúc này có 6 tổng với 145 xã, thôn, trang, vạn, gia, giáp, sở, phường, gồm địa bàn huyện Đông Sơn ngày nay, phần lớn thành phố Thanh Hoá ngày nay và 8 xã phía nam sông Chu thuộc huyện Thiệu Hoá ngày nay. 8 xã thuộc huyện Thiệu Hoá nêu trên bao gồm: Thiệu Viên, Thiệu Lý, Thiệu Vận, Thiệu Trung, Thiệu Đô, Thiệu Châu, Thiệu Giao, Thiệu Tân.
Năm 1804, vua Gia Long ra chỉ dụ dời trấn thành Thanh Hóa từ làng Dương Xá (thuộc tổng Đại Bối, huyện Đông Sơn, nay thuộc phường Thiệu Dương, thành phố Thanh Hóa) về làng Thọ Hạc (thuộc tổng Thọ Hạc, huyện Đông Sơn, nay thuộc phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa).
Vào cuối thời Gia Long (trước năm 1820), huyện Đông Sơn (lúc đó là một trong 8 huyện của phủ Thiệu Hóa) gồm có 6 tổng như sau:
- Tổng Thọ Hạc (29 xã, thôn, vạn, giáp);
- Tổng Quang Chiếu (33 xã, thôn);
- Tổng Lê Nguyễn (24 xã, thôn, sở).
- Tổng Thạch Khê (24 xã, thôn, phường);
- Tổng Đại Bối (16 xã, thôn, trang);
- Tổng Vận Quy (19 xã, thôn).
Năm 1824 (Minh Mệnh thứ 5), một số địa danh được thay đổi như sau:
- Tổng Thọ Hạc: thôn Quốc Thích (xã Đồng Hương) đổi thành thôn Lai Thành.
- Tổng Quang Chiếu: thôn Ngòi Giáp (xã Quang Chiếu) đổi thành thôn Văn Khê.
- Tổng Lê Nguyễn đổi thành tổng Thanh Hoa, đồng thời xã Lê Nguyễn được đổi tên thành xã Thanh Hoa, xã Thì Hạ (Thời Hạ) đổi thành xã Hàm Hạ, xã Triệu Xá Tiền đổi thành xã Triệu Tiền, thôn Cửa Bụt (xã Doãn Xá) đổi thành thôn Đại Từ, thôn Bái và thôn Bến Quan (xã Phúc Lý) đổi tương ứng thành thôn Thái Nẫm và thôn Mỹ Tân.
- Tổng Thạch Khê: xã Ngọc Đôi đổi thành xã Ngọc Tích, xã Ngọc Bôi đổi thành xã Kim Bôi, xã Phúc Thọ đổi thành xã Phúc Triền, xã Tam Tuyền đổi thành xã Tam Xuyên, thôn Trường Hồng (xã Phù Liễn) đổi thành thôn Trường Xuân.
- Tổng Vận Quy: xã Nguyễn Xá đổi thành xã Quy Xá, xã Hồng Đô đổi thành xã Mỹ Đô, thôn Bến (xã Cổ Đô) đổi thành thôn An Tân.
Năm 1838 (Minh Mệnh thứ 19), tách một phần tổng Thọ Hạc để lập tổng Bố Đức, tách một phần tổng Quang Chiếu để lập tổng Quảng Chiếu.
Cũng vào cuối thế kỷ 19, huyện Đông Sơn gồm có 9 tổng như sau:
- Tổng Thọ Hạc (20 xã, thôn, phường, vạn, giáp);
- Tổng Bố Đức (13 xã, thôn, vạn);
- Tổng Quang Chiếu (19 xã, thôn);
- Tổng Quảng Chiếu (16 xã, thôn);
- Tổng Tuyên Hóa (16 xã, thôn, sở).
- Tổng Thanh Khê (16 xã, thôn);
- Tổng Thạch Khê (16 xã, thôn, phường, giáp);
- Tổng Đại Bối (14 xã, thôn, trang);
- Tổng Vận Quy (18 xã, thôn).
Ngày 22 tháng 7 năm 1889, theo đạo dụ của vua Thành Thái, 7 làng: Đức Thọ Vạn, Cẩm Bào Nội, Cốc Hạ, Phủ Cốc (thuộc Tổng Bố Đức); Thọ Hạc, Đông Phố, Nam Phố (thuộc tổng Thọ Hạc), đều thuộc huyện Đông Sơn được tách ra để thành lập thị xã Thanh Hóa.
Năm 1900, tách 2 tổng Vận Quy và Đại Bối (địa bàn 8 xã thuộc huyện Thiệu Hóa nêu trên, cùng với các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, Thiệu Vân nay thuộc thành phố Thanh Hóa) ra khỏi huyện Đông Sơn, nhập vào huyện Thụy Nguyên, với 115 làng và 5.794 dân đinh
Ngày 28 tháng 8 năm 1971, 3 xã: Đông Vệ, Đông Hương, Đông Hải được sáp nhập vào thị xã Thanh Hóa.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ đã ra Quyết định số 177/CP trong đó sáp nhập 16 xã của huyện Thiệu Hóa ở hữu ngạn sông Chu vào huyện Đông Sơn và đổi tên thành huyện Đông Thiệu (phần còn lại của huyện Thiệu Hoá sáp nhập vào huyện Yên Định và đổi tên thành huyện Thiệu Yên). Huyện Đông Thiệu có 36 xã: Đông Anh, Đông Cương, Đông Hòa, Đông Hoàng, Đông Hưng, Đông Khê, Đông Lĩnh, Đông Minh, Đông Nam, Đông Ninh, Đông Phú, Đông Quang, Đông Tân, Đông Thanh, Đông Thịnh, Đông Tiến, Đông Văn, Đông Vinh, Đông Xuân, Đông Yên, Thiệu Châu, Thiệu Chính, Thiệu Đô, Thiệu Dương, Thiệu Giao, Thiệu Hòa, Thiệu Khánh, Thiệu Lý, Thiệu Minh, Thiệu Tâm, Thiệu Tân, Thiệu Toán, Thiệu Trung, Thiệu Vân, Thiệu Vận và Thiệu Viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 1982, huyện Đông Thiệu đổi lại tên cũ là huyện Đông Sơn.
Ngày 28 tháng 1 năm 1992, thành lập thị trấn Rừng Thông trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các xã Đông Lĩnh, Đông Tiến, Đông Xuân và Đông Tân.
Ngày 6 tháng 12 năm 1995, xã Đông Cương sáp nhập vào thành phố Thanh Hóa.
Ngày 18 tháng 11 năm 1996, tách 16 xã ở hữu ngạn sông Chu để tái lập huyện Thiệu Hóa theo Nghị định số 72/CP của Chính phủ.
Ngày 21 tháng 4 năm 2006, thành lập thị trấn Nhồi trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các xã Đông Hưng và Đông Tân.
Ngày 29 tháng 2 năm 2012, chuyển thị trấn Nhồi và 4 xã: Đông Lĩnh, Đông Tân, Đông Hưng, Đông Vinh về thành phố Thanh Hóa quản lý.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, sáp nhập toàn bộ diện tích, dân số của xã Đông Xuân và một phần diện tích, dân số của hai xã Đông Tiến, Đông Anh vào thị trấn Rừng Thông.
Ngày 1 tháng 12 năm 2019, sáp nhập xã Đông Anh vào xã Đông Khê.
Đến cuối năm 2023, huyện Đông Sơn có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Rừng Thông và 13 xã: Đông Hòa, Đông Hoàng, Đông Khê, Đông Minh, Đông Nam, Đông Ninh, Đông Phú, Đông Quang, Đông Thanh, Đông Thịnh, Đông Tiến, Đông Văn, Đông Yên.
Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1238/NQ–UBTVQH15 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2023-2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2025). Theo đó, sáp nhập toàn bộ 228,22 km2 diện tích tự nhiên và quy mô dân số là 615.106 người của huyện Đông Sơn vào thành phố Thanh Hóa.
Nhân dân huyện Đông Sơn với Chủ tịch Hồ Chí Minh
Vào ngày 20 tháng 2 năm 1947, trong lần đầu tiên đến thăm tỉnh Thanh Hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp gỡ và nói chuyện thân mật với cán bộ hành chính, mặt trận các huyện, châu và các thân hào, thân sĩ, trí thức, đại biểu dân tộc, tôn giáo của tỉnh tại Rừng Thông (nay là di tích địa điểm lịch sử và thắng cảnh Rừng Thông).
Ngày 15 tháng 6 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi tặng khen cho nhân dân xã Đông Anh vì đã có đóng góp, ủng hộ bộ đội địa phương.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Trên địa bàn huyện có các cụm nghề chính: Đông Anh, Đông Tiến, Đông Nam.
Nghề khai thác và chế tác đá xuất khẩu, đá mỹ nghệ đem lại cho huyện nguồn thu lớn.
Năm 2004, tổng doanh thu thương mại đạt khoảng 23.341 triệu đồng, tăng 20% so với năm 2003. Riêng xuất khẩu đạt 5.279.300 USD đạt 105,6% kế hoạch, tăng 47,7% so với năm 2003.
Giáo dục
Các trường THPT trên địa bàn huyện:
THPT Đông Sơn 1 (thị trấn Rừng Thông);
THPT Đông Sơn 2 (xã Đông Văn);
Trường PT Nguyễn Mộng Tuân (thị trấn Rừng Thông);
Trung tâm GDNN - GDTX huyện Đông Sơn (thị trấn Rừng Thông).
Các trường THCS trên địa bàn huyện: THCS Nguyễn Chích (trước đây là trường Năng khiếu Đông Sơn) Các trường THCS thuộc các xã.
Đông Sơn là huyện có truyền thống khoa cử. Dân gian có câu: thầy đồ Hoằng Hoá, thầy khoá Đông Sơn.
Văn hóa
Các điểm lưu hành Dân ca Đông Anh (trò Viên Khê) và tương quan với trò Rủn, trò Bôn
Huyện Đông Sơn nổi tiếng với hệ thống trò diễn dân gian: ngũ trò Viên Khê (dân ca, dân vũ Đông Anh, ở xã Đông Khê (trước đây là xã Đông Anh), ngũ trò Bôn (nay thuộc xã Đông Thanh), ngũ trò Rủn (nay thuộc xã Đông Khê).
Ngày nay, nghệ nhân Thiều Quang Tùng (xã Đông Tiến) là một trong 2 nghệ nhân của tỉnh Thanh Hoá đã đúc phục chế được trống đồng (nghệ nhân còn lại ở xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hoá, xưa cũng thuộc Đông Sơn).
Tại thị trấn Rừng Thông có khu di tích lịch sử quốc gia tưởng niệm chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giao thông
Đường bộ: :Quốc lộ 45, chạy từ thành phố Thanh Hóa, cắt ngang phía bắc huyện, qua thị trấn Rừng Thông, sang huyện Thiệu Hóa. :Quốc lộ 47, chạy từ thành phố Thanh Hóa, cắt ngang phía bắc huyện, qua thị trấn Rừng Thông, sang huyện Triệu Sơn. Đường sắt Thống Nhất Bắc - Nam, chạy từ thành phố Thanh Hóa, theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, sang huyện Nông Cống.
Đây là địa phương có tuyến đường cao tốc Mai Sơn – Quốc lộ 45 đi qua.
- Đường thủy: :*Sông Nhà Lê đoạn qua Đông Sơn cũng thuộc tuyến kênh Nhà Lê nối từ kinh đô Hoa Lư tới Đèo Ngang, được xem là tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên sông ở Việt Nam.
Danh nhân
Các danh nhân quê ở huyện Đông Sơn: Thiều Thốn, ở làng Thọ Sơn ( nay thuộc thôn Nhuận Thạch ), xã Đông Tiến. Thiều thốn là Phò Kỳ lang (Phò mã), chức vụ Phòng Ngự sứ Lạng Sơn đời Trần. Lê Trắc (hay Lê Tắc), viết sách An Nam chí lược, đời Trần. Nguyễn Chích, ở làng Vạn Lộc, xã Đông Ninh, dũng tướng Lam Sơn, khai quốc công thần thời Lê. Nguyễn Nhữ Soạn, tướng thờ Lê Lợi, cùng cha khác mẹ với Nguyễn Trãi. Nguyễn Mộng Tuân, ở làng Viên Khê, xã Đông Anh, đậu Thái học sinh đời Trần. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, làm quan tới chức Tả Nạp Ngôn, Vinh lộc đại phu. Ông có tập thơ "Cúc pha tập". Thiều Quy Linh ở làng Doãn Xá, (phần đông nam Doãn Xá tổng Lê Nguyễn huyện Đông Sơn phủ Thiệu Thiên nay là thôn Thiều thuộc xã Đông Văn, Đông Sơn). Tử tiết chống nhà Mạc. Lê Hy, quê làng Thạch Khê (nay thuộc xã Đông Khê), đỗ Tiến sĩ, giữ chức Tham Tụng, Sách quận công. Lê Hy còn là nhà sử học thế kỷ XVII chức Quốc sử quán tổng đài, biên soạn và hoàn thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư đến đời Lê Gia Tông (năm 1692) và viết Bản kỷ tục biên. Nguyễn Nghi, ở làng Ngọc Bôi, xã Đông Thanh, làm quan tới chức Tả thị lang Bộ Lại kiêm Đông các đại học sĩ, tước Thái Bảo, thầy dạy hai vua Lê Anh Tông và Lê Thế Tông. *Nguyễn Khải (con thứ Nguyễn Nghi), võ tướng thời Lê Trung Hưng, tước Đặng quận công.. nhỏ
Công cụ
Sản phầm đồ đồng thời Đông Sơn vừa đa dạng, vừa phong phú. Công cụ sản xuất nông nghiệp có các loại lưỡi cày, thuổng, rìu, cuốc, mai... Đồ sản xuất thủ công có đục, nạo, dùi, dũa, dao khắc, rìu, kim. Đặc biệt là cư dân văn hóa Đông Sơn đã đúc được loại trống đồng, thạp đồng lớn để dùng trong các cuộc tế lễ, hội làng, ma chay, chiến trận..
Hình bên chụp 1 số cổ vật khai quật được tại Đông Sơn:
1,2: Lưỡi cày đồng
3: Vòng đồng
4: Trống minh khí (loại nhỏ, chôn theo người chết) nhỏ
Vũ khí
Vũ khí thời Đông Sơn rất độc đáo. Rìu chiến có các loại rìu lưỡi xéo, rìu lưỡi xòe cân, rìu hình chữ nhật, rìu hình dao phang. Giáo có loại hình búp đa, hình lá mía, hình thoi có lỗ, hình kiếm... Mũi tên có hình cánh én, hình lao. Dao găm có loại hình lá tre, đốc củ hành, đốc bầu dục hay chuôi là tượng hình người. Các tấm che ngực vuông hay chữ nhật, có hoa văn nổi...
Diện tích | 249 km² |
Dân số | 200.000 (1992) |
Huyện lỵ | trấn Tây Phố |
Cấp hành chính | huyện |
Mã số bưu chính | 363400 |
Mã vùng điện thoại | 0596 |