✨Narita Express

Narita Express

, viết tắt là N'EX, là một dịch vụ tàu tốc hành đặc biệt (limited express) hoạt động tại Nhật Bản từ năm 1991 bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East), kết nối Sân bay Quốc tế Narita với nhiều ga quan trọng của Vùng thủ đô Tokyo. Với tần suất 2 chuyến mỗi giờ vào các buổi sáng và tối, và 1 chuyến mỗi giờ vào ban ngày. Đối thủ chính của Narita ExpressSkyliner, cũng kết nối đến sân bay Narita nhưng của Công ty Đường sắt điện Keisei.

Các tàu và hành trình vận chuyển

thumb|Hai tàu dòng E259 đang được tách ra ở [[ga Tokyo vào tháng 2 năm 2011]] thumb|Bản đồ lộ trình Các tàu Narita Express đi đến rất nhiều ga quan trọng của Vùng thủ đô Tokyo. Các tàu thuộc thế hệ tàu dòng E259 có 6 toa và chỉ dành riêng cho dịch vụ này, tất cả đều đi qua ga Tokyo, nơi mà các tàu sẽ được tách ra hoặc nối lại (từ/thành 12 toa). Thông thường, các tàu từ hoặc được nối thêm với các tàu từ , hoặc và giữ nguyên chiều dài cho tới bên cuối ở sân bay Narita (thông qua Tuyến Sōbu Chính và Tuyến Narita). Ở chuyến về, thì sẽ làm ngược lại. Từ , một vài các tàu chạy theo mùa sẽ tiếp tục đi tới và bằng Tuyến Yokosuka, và từ , một vài các tàu chạy theo mùa sẽ tiếp tục đi tới và bằng Tuyến Fujikyuko.

Đa số các tàu Narita Express sẽ không dừng giữa Tokyo và Ga Narita Airport Terminal 2·3. Vào các buổi sáng, tối cao điểm, một vài tàu sẽ chạy dưới dạng tốc hành (commuter express), dừng thêm tại Chiba, Yotsukaidō, Sakura, và Narita. Trung bình thời gian hành trình từ Tokyo đến Sân bay Narita là từ 55 phút cho tới 1 giờ. Tất cả các ghế đều phải đặt trước, chia ra hai loại là hạng ghế chuẩn và hạng ghế hạng nhất (Green).

Bố trí tàu

Vào tháng 3 năm 2012, các tàu từ Tokyo đến Sân bay Narita có 12 toa, được bố trí như hình dưới đây, với toa số 1 là toa cuối ở Shinjuku / Yokohama, và toa số 12 là toa cuối ở Sân bay Narita Airport. Tất cả các ghế đều phải đặt trước, toa hạng nhất (Green car) được đặt ở toa số 6 và 12.

Nội thất

Các toa hạng nhất có hệ thống ghế được bọc da, hướng cùng chiều với tàu và có thể xoay 180 độ (phục vụ chiều về). Bề rộng chỗ ngồi là .

Tập tin:E259 Narita Express Green car interior 20091024.JPG|Nội thất toa hạng nhất Tập tin:E259 interior 20091017.JPG|Nội thất toa tiêu chuẩn Tập tin:JREast-E259 inside trunk space.jpg|Khu vực để hành lý cồng kềnh có hệ thống khóa Tập tin:Toilet E259.jpg|Khu vệ sinh của toa hạng nhất

Lịch sử

thumb|Tàu Narita Express thế hệ cũ - [[dòng 253 vào tháng 12 năm 2006]] Cho tới năm 1991, các chuyến tàu đi đến Sân bay Narita chỉ được phục vụ bởi Keisei Skyliner, sử dụng hệ thống ga riêng của Keisei, kết nối bất tiện với hệ thống ga của mình. Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản đã có kế hoạch xây dựng một tuyến đường sắt cao tốc mới, mang tên là Narita Shinkansen, đi đến thẳng các nhà ga ngầm dưới sân bay Narita. Tuy nhiên, kế hoạch bị loại bỏ vào những năm 1980, và vị trí, ray trước đây định dành cho ga ngầm và tuyến shinkansen nay được kết nối trực tiếp với Tuyến Narita và Tuyến Keisei Chính đến thẳng sân bay. Các tàu Narita Express bắt đầu đến nhà ga mới từ 19 tháng 3 năm 1991, và các tàu Skyliner cũng chuyển sang dùng nhà ga mới cùng thời điểm đó.

Cho tới tháng 3 năm 2004, dịch vụ tốc hành đặc biệt Wing Express được giới thiệu nhằm hoàn thiện Narita Express, với một chuyến khứ hồi mỗi ngày giữa Ōmiya/Ikebukuro/Shinjuku và Sân bay Narita. Dịch vụ này sau đó bị thay thế bởi việc mở rộng hoạt động của Narita Express.

Kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2005, Narita Express trở thành tàu cấm hút thuốc lá.

Vào ngày 1 tháng 10 năm 2009, chín con tàu mới thuộc dòng E259 gia nhập đội 26 tàu Narita Express khứ hồi, thay thế các tàu dòng 253 cũ. Tới tháng 7 năm 2010 toàn bộ các tàu Narita Express đều được thay mới thành dòng E259.

Dịch vụ Narita Express bị tạm dừng vào ngày 11 tháng 3 năm 2011 do xảy ra thảm họa Động đất và sóng thần Tōhoku và thiếu điện ở khu vực Tokyo. Sau đó, dịch vụ được nối lại một phần vào ngày 4 tháng 4 năm 2011, với tần suất vào thời gian chạy tàu như lúc trước xảy ra thảm họa đã được thông qua vào ngày 3 tháng 9 năm 2011.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, viết tắt là **N'EX**, là một dịch vụ tàu tốc hành đặc biệt (limited express) hoạt động tại Nhật Bản từ năm 1991 bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East), kết
là tên của một chuyến "tốc hành" ("Rapid") dừng tại ít ga trên tuyến đường sắt ngoại ô ở Vùng thủ đô Tokyo bắt đầu hoạt động từ năm 1991 bởi Công ty Đường sắt
**Chuyến bay 80 của FedEx Express** là chuyến bay chở hàng theo lịch trình từ Sân bay Quốc tế Bạch Vân Quảng Châu ở Trung Quốc, đến Sân bay Quốc tế Narita ở Narita, Quận
là một sân bay quốc tế tọa lạc tại Narita, Chiba, Nhật Bản, phía Đông của Vùng Đại Tokyo. Narita phục vụ phần lớn các chuyến bay vận chuyển hành khách đến và đi Nhật
**Chuyến bay 14 của FedEx Express** **(FX14/FDX14)** là chuyến bay chở hàng theo lịch trình từ Singapore đến Newark, New Jersey, qua Malaysia, Đài Loan và Alaska. Vào ngày 31 tháng 7 năm 1997, chiếc
Sân bay Haneda năm 1937 Ga Nội địa của sân bay Haneda **Sân bay quốc tế Tokyo** (tiếng Nhật: 東京国際空港, _Tōkyō Kokusai Kūkō_, _Đông Kinh quốc tế không cảng_), tên thông dụng là **Sân bay
là một dịch vụ đường sắt trên Tuyến Sōbu Chính ở Tokyo và Chiba, Nhật Bản, vận hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East). Nó kết nối ga Tokyo ở Chūō,
là một tuyến đường sắt ở Nhật Bản được vận hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East). Tuyến Yokosuka kết nối ga Tokyo với ga Kurihama ở Yokosuka, Kanagawa. Tuyến Yokosuka
là một tập hệ thống các nhà ga nơi giao nhau của nhiều tuyến đường sắt quan trọng có vị trí tại quận Nakahara, phía Đông của Kawasaki, Kanagawa, Nhật Bản, vận hành bởi Công
là một ga đường sắt rất quan trọng nằm ở quận Shinjuku và Shibuya, Tokyo, Nhật Bản. Đây là một hệ thống ga phức hợp kết nối nhiều tuyến tàu giữa các quận đặc biệt
là một công ty vận tải hành khách đường sắt lớn của Nhật Bản và một trong 7 công ty được tách ra từ Đường sắt Quốc gia Nhật Bản (JNR) sau khi tập
là một nhà ga nằm ở Shibuya, Tokyo, Nhật Bản, liên kết vận hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East), , , và . Với 2,4 triệu lượt khách mỗi ngày
là một tuyến đường sắt vòng quanh Tokyo, Nhật Bản, điều hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East). Đây là tuyến bận rộn và quan trọng nhất của Tokyo, kết nối
**_The Amazing Race 18_** (hay còn gọi là **_The Amazing Race: Unfinished Business_**) là phần thứ mười tám của chương trình truyền hình thực tế **The Amazing Race**. The Amazing Race 18 có mười một
nhỏ|phải|Bên trong nhà ga nhỏ **Sân bay Zürich** cũng gọi là **Sân bay Kloten**, tọa lạc tại bang Kloten, Thụy Sĩ và được quản lý bởi Unique Airport. Đây là cửa ngõ quốc tế lớn
là sân bay nội địa đầu tiên của vùng Kansai của Nhật Bản, bao gồm các thành phố Osaka, Kyoto, và Kobe. Sân bay này được xếp hạng sân bay hạng nhất. Sân bay này
**Philippine Airlines (PAL)**, một thương hiệu của PAL Holdings, Inc. (PSE: [http://www.pse.com.ph/stockMarket/companyInfo.html?id=20&security=189&tab=0 PAL]), cũng được biết đến với tên gọi lịch sử (dùng đến năm 1970) là **Philippine Air Lines**, là hãng hàng không quốc
là một sân bay cấp hai tọa lạc tại Natori, Miyagi, Nhật Bản. Tuyến sân bay Sendai, sẽ nối sân bay đến ga Sendai, đang được xây dựng và sẽ đưa vào sử dụng ngày
thumb|Bức áp phích [[quảng cáo dịch vụ bưu phẩm hàng không hàng tuần từ Deutsche Lufthansa, Syndicato Condor và Deutsche Zeppelin Reederei của Đức vào thập niên 1930.]] **Hãng hàng không** là một công ty
**Busan** (Tiếng Hàn: 부산, Hanja: 釜山, Hán Việt: Phủ Sơn) () hay còn được viết là **Pusan**, tên chính thức là **Thành phố Đô thị Busan** (Tiếng Hàn: 부산광역시, Hanja: 釜山廣域市, Hán Việt: Phủ Sơn
**Sân bay quốc tế Cairo** (Arabic: مطار القاهرة الدولي) là một sân bay dân sự lớn ở thủ đô Cairo, Ai Cập. Đây là trung tâm hoạt động hàng đầu của hãng hàng không EgyptAir.
**Sân bay quốc tế Mactan-Cebu** (, ) là một sân bay quốc tế chính ở vùng Visayas của Philippines. Sân bay này nằm ở Thành phố Lapu-Lapu, đảo Mactan, Metro Cebu và là cửa ngõ
phải|Sơ đồ Sân bay KPDX phải|Sân bay KPDX nhìn từ trên cao từ Tây Namt :_Để xem sân bay Portland, Maine, xem Portland International Jetport_ :_For the drug PDX, see 10-propargyl-10-deazaaminopterin_ :_PDX cũng là một
**Dòng máy bay Airbus A320** vận tải hành khách thương mại tầm ngắn đến tầm trung do hãng Airbus S.A.S. chế tạo. Các phiên bản của dòng máy bay này gồm có **A318**, **A319**, **A320**,
**Sân bay Quốc tế Bandaranaike** (Airport codes|CMB|VCBI) là một trong hai cảng hàng không quốc tế của Sri Lanka. Sân bay này nằm tại Katunayaka, cách thủ đô Colombo 35 km về phía bắc. Sân bay
**Cathay Pacific** được gọi là **Quốc Thái Hàng Không** trong Hán-Việt (tiếng Anh: **Cathay Pacific Limited** viết tắt: 國泰/国泰) là hãng hàng không quốc gia của Hong Kong với tổng hành dinh và điểm trung
nhỏ|Màu sơn của chiếc JAL [[Boeing 747-400 từ 1989-2002]] nhỏ|Trụ sở của Japan Airlines tại Tokyo phải|[[Airbus A350|Airbus A350-900 kỉ niệm 20th ARASHI THANKS JET]] phải|[[Boeing 747-400]] **Japan Airlines** (viết tắt **JAL**), tên chính thức
là một tuyến đường sắt được điều hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East). Nó kết nối ga Tsurumi ở Yokohama với ga Nishi-Funabashi ở Chiba, tạo thành tuyến vành đai