là một tuyến đường sắt ở Nhật Bản được vận hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East).
Tuyến Yokosuka kết nối ga Tokyo với ga Kurihama ở Yokosuka, Kanagawa. Tuyến Yokosuka chính thức dài 23,9 km giữa ga Ōfuna và ga Kurihama, nhưng toàn tuyến nói chung vẫn được gọi dưới tên là "Tuyến Yokosuka".
Thông tin cơ bản
Thông số chính thức
- Công ty điều hành, độ dài:
JR East (Dịch vụ và đường ray)
Ōfuna — Kurihama:
Công ty Vận tải Đường sắt Nhật Bản (JR Freight) (Dịch vụ)
Ōfuna — Zushi:
- Đoạn có ray đôi (2 chiều): Ōfuna – Yokosuka
- Tín hiệu đường sắt: Centralized Traffic Control (CTC)
JR East
- Tokyo — Kurihama:
- Đoạn có ray đôi (2 chiều): Tokyo – Yokosuka
- Tín hiệu đường sắt: Centralized Traffic Control (CTC)
- Tốc độ tối đa:
Lộ trình
Tuyến Yokosuka đi ngầm giữa ga Tokyo và ga Shinagawa (song song với Tuyến Tōkaidō Chính, Tuyến Yamanote và Tuyến Keihin-Tōhoku) sau đó đi dọc theo hướng Tây, song song với Tōkaidō Shinkansen dẫn đến Kawasaki. (sự bố trí này về mặt kỹ thuật, tên là Tuyến , vốn ban đầu xây dựng để phục vụ vận tải; xem thêm ở dưới.) Nó tái hợp với hành lang của Tuyến Tōkaidō Chính gần ga Tsurumi và theo đó xuống đến Ōfuna, tới đây lại rẽ sang hướng Đông Nam về Bán đảo Miura.
Các dịch vụ
Các tàu trên Tuyến Yokosuka dừng ở tất cả các ga trên đường đi. Đa phần các tàu có 11, với 2 toa có tên là Green Car (toa cao cấp). Các tàu còn lại nối từ Tokyo đến Zushi có 15 toa—chính là tàu 11 toa nối thêm 4 toa ở đầu. (Do các ga từ Zushi đến Kurihama có chiều dài chờ sân ga ngắn, 4 toa ở đầu được tách ra/nối vào ở Zushi, chỉ có tàu 11 toa chạy tiếp cho tới Kurihama). Một vài tàu chạy ban ngày giữa Zushi và Kurihama chỉ có 4 toa mà không có toa cao cấp Green Car. Thỉnh thoảng sẽ có một vài tàu tốc hành (bỏ qua các ga nhỏ) đến thẳng sân bay Narita nhưng vẫn chạy dưới dạng tàu local (dừng ở tất cả các ga) ở trên Tuyến Yokosuka.
Các tàu local trên Tuyến Shōnan-Shinjuku dừng ở tất cả các ga trên Tuyến Yokosuka giữa Nishi-Ōi and Zushi.
Về Tàu tốc hành đặc biệt Narita Express và các tàu tốc hành khác, xem thêm ở dưới.
Đa phần các tàu của Tuyến Yokosuka đều đi tiếp sau khi qua ga cuối Tokyo để phục vụ Tuyến Sōbu (tốc hành) tới Chiba và ngược lại. Tuy nhiên, nếu có sự cố, chậm tàu thì chúng sẽ quay đầu lại tại ga Tokyo. Tất cả các hướng rẽ sau khi qua Chiba gồm có:
- Hướng đến ga cuối trên Tuyến Sotobō
- Hướng đến ga cuối trên Tuyến Uchibō
- Hướng đến sân bay Narita trên Tuyến Narita (Airport Narita)
- Hướng đến ga cuối trên Tuyến Kashima
- Hướng đến ga cuối trên Tuyến Sōbu Chính
Danh sách ga
Đoạn giữa Yokosuka và Kurihama là ray đơn; các tàu chỉ có thể tránh nhau ở ga Kinugasa - ga giữa đường và ga Kurihama - ga cuố.
Lịch sử
Tuyến Yokosuka được xây dựng do yêu cầu của Nội các Nhật Bản từ Hải quân và Lục quân ngày 22 tháng 6 năm 1886, do sự thiếu hụt với nhu cậu vận tải bộ tới Yokosuka, một trong những căn cứ quân đội quan trọng của đất nước. Vào ngày 22 tháng 4 năm 1887, Nội các đặt hàng Công ty Đường sắt nhà nước xây dựng tuyến này với nguồn vốn chuyển từ vốn cho xây dựng Tuyến Tōkaidō. Sau quá trình chưng cầu ý kiến từ tháng 7 tới tháng 12 năm 1887, việc xây dựng được bắt đầu từ Ōfuna đến Yokosuka vào tháng 1, 1888 và hoàn thành vào tháng 6 năm 1889 tiêu tốn tổng cộng 408.480 yên. Tuyến được đưa vào vận hành ngày 16 tháng 6 năm 1889.
Dấu mốc thời gian
- 16 tháng 6 năm 1889: Đoạn giữa Ōfuna và Yokosuka hình thành với các ga trung gian: Kamakura và Zushi
- 1 tháng 4 năm 1895: Tuyến trở thành một phần của Tuyến Tōkaidō
- 1 tháng 5 năm 1904: Mở cửa ga Taura
- 12 tháng 10 năm 1909: Tuyến đổi tên thành Yokosuka
- 12 tháng 8 năm 1914: Tuyến có đường ray đôi từ Zushi đến Numama (xây mới giữa Zushi và Taura)
- 13 tháng 9 năm 1916: Tuyến có đường ray đôi từ Ōfuna đến Kamakura
- Tháng 3, 1917: Tuyến có đường ray đôi từ Kamakura đến Zushi
- 20 tháng 10 năm 1920: Tuyến có đường ray đôi từ Numama đến Taura
- 25 tháng 12 năm 1924: Tuyến có đường ray đôi từ Taura đến Yokosuka
- 23 tháng 12 năm 1925: Toàn tuyến được điện khí hóa; các đầu tàu chạy điện hoạt động từ Tokyo đến Yokosuka
- 20 tháng 5 năm 1927: Ga Kita-Kamakura được mở cửa (tạm thời)
- 15 tháng 3 năm 1930: Tất cả các toa tàu được điện khí hóa
- 1 tháng 10 năm 1930: Ga Kita-Kamakura được mở cửa chính thức
- 1 tháng 4 năm 1944: Tuyến được mở rộng tới Kurihama; Ga Kinugasa được mở cửa
- Tháng 4–tháng 8 năm 1945: Ga Sagami-Kanaya (tạm thời) được mở cửa phục vụ một căn cứ quân sự giữa Yokosuka và Kinugasa
- 1 tháng 4 năm 1952: Ga Higashi-Zushi được mở cửa
- 16 tháng 6 năm 1968: Hành lý trên một chuyến tàu Yokosuka phát nổ gần ga Ōfuna, làm 1 người thiệt mạng và 14 người bị thương. Thủ phạm là một người đàn ông, nói rằng không muốn làm hại bất kỳ ai mà chỉ muốn đe dọa người vợ cũ; tuy nhiên, người này vẫn bị kết án tử hình.
- 1 tháng 10 năm 1974: Các dịch vụ vận tải bị loại bỏ giữa Yokosuka và Kurihama
- 1 tháng 10 năm 1976: Đường ray đôi ngầm mới dưới lòng đất giữa Tokyo và Shinagawa được mở; các tàu của Tuyến Sōbu (tốc hành) dừng tại bến cuối Shinagawa
- 1 tháng 10 năm 1980: Chia tách ray của Tuyến Tōkaidō giữa Tokyo và Ōfuna để phục vụ Tuyến Yokosuka; Ga Shin-Kawasaki, Higashi-Totsuka được mở; Ga Hodogaya chỉ phục vụ tàu của Yokosuka
- 1 tháng 2 năm 1984: Các dịch vụ vận tải bị loại bỏ giữa Yokosuka và Zushi
- 2 tháng 4 năm 1986: Ga Nishi-Ōi được mở cửa
- 2 tháng 5 năm 1998: Thông tuyến tại Zushi từ Tuyến Yokohama và Tuyến Negishi hoạt động vào cuối tuần và các ngày nghỉ lễ
- 1 tháng 12 năm 2001: Tuyến Shōnan-Shinjuku được khai trương
- 16 tháng 10 năm 2004: Có thay đổi lớn trên Tuyến Shōnan-Shinjuku; các tàu không còn dừng tại ga cuối Shinjuku nữa
- 1 tháng 5 năm 2006: JR Freight ngừng hoạt động giữa Taura và Zushi
- 15 tháng 3 năm 2008: Thông tuyến vào cuối tuần/ngày lễ đến Zushi từ Tuyến Yokohama và Tuyến Negishi bị loại bỏ; Sàn chờ tàu mới cho tuyến Yokosuka được xây dựng ở ga Shinagawa
- 13 tháng 3 năm 2010: Tuyến Yokosuka bắt đầu kết nối, hoạt động với ga Musashi-Kosugi
- 13 tháng 3 năm 2015: Tàu Ohayō Liner Zushi và Home Liner Zushi bị loại bỏ.
Tuyến Hinkaku
ban đầu được xây dựng để san sẻ lưu lượng vận tải với Tuyến Tōkaidō Chính hết sức bận rộn, cung cấp một tuyến đường thay thế từ đến . Sau vụ nổ năm 1967, các tàu vận tải bị cấm tham gia vào mạng lưới giao thông hành khách Tokyo, do đó thúc đẩy việc xây dựng Tuyến Musashino. Tuyến Musashino mới này được kết nối với Tuyến Hinkaku gần 6 km về phía Bắc của ga Tsurumi gần , dần dần trở thành tuyến vận tải chính sau khi được mở cửa 1975. Điều này dẫn tới một lượng đáng kể các đường ray đôi của Tuyến Hinkaku bị lãng phí.
Nhằm đưa đường ray này vào phục vụ hành khách, một đường ray 6 km mới được xây dựng giữa ga Tsurumi và Tuyến Musashino, để kết nối phần ray không sử dụng của Tuyến Hinkaku. Hai ga mới đã được xây dựng: một là () nằm rất gần ga Kashimada của Tuyến Nambu vào năm 1980 và hai là năm 1986. Ga thứ ba - Musashi-Kosugi Station mở cửa năm 2010 cho phép chuyển tàu sang Tuyến Nambu cũng như Tuyến Tōkyū Tōyoko và Tuyến Tōkyū Meguro.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một tuyến đường sắt ở Nhật Bản được vận hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East). Tuyến Yokosuka kết nối ga Tokyo với ga Kurihama ở Yokosuka, Kanagawa. Tuyến Yokosuka
là một tuyến đường sắt chính của Nhật Bản thuộc mạng lưới của Tập đoàn Đường sắt Nhật Bản (JR Group), nối các ga và . Nó dài , không kể nhiều tuyến trung chuyển
là một dịch vụ đường sắt trên Tuyến Sōbu Chính ở Tokyo và Chiba, Nhật Bản, vận hành bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East). Nó kết nối ga Tokyo ở Chūō,
là một tập hệ thống các nhà ga nơi giao nhau của nhiều tuyến đường sắt quan trọng có vị trí tại quận Nakahara, phía Đông của Kawasaki, Kanagawa, Nhật Bản, vận hành bởi Công
là một tuyến đường sắt của Nhật Bản được khai trương vào tháng 12 năm 2001. Tuyến này không có đường ray riêng mà chia sẻ sử dụng đường ray với các tuyến khác
**Yokosuka D3Y Myojo** (_Minh Tinh_) là một loại máy bay ném bom bổ nhào/huấn luyện hai chỗ ngồi của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Do Xưởng kỹ thuật Hàng không Hải quân Yokosuka thiết
**Yokosuka D4Y _Suisei**_ (tiếng Nhật: 彗星, **tuệ tinh**, nghĩa là sao chổi) là kiểu máy bay ném bom bổ nhào hoạt động trên các tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên
Chiếc **Yokosuka H5Y** là một kiểu thủy phi cơ trinh sát của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Yokosuka đã hợp đồng cùng Quân xưởng Hải quân số 11 để chế tạo kiểu máy bay
là tên của một chuyến "tốc hành" ("Rapid") dừng tại ít ga trên tuyến đường sắt ngoại ô ở Vùng thủ đô Tokyo bắt đầu hoạt động từ năm 1991 bởi Công ty Đường sắt
, còn gọi là **Thân vương Mikasa** là một thành viên của Hoàng gia Nhật Bản. Ông là con trai thứ tư và là con út của Thiên hoàng Đại Chính và Hoàng hậu Trinh
, viết tắt là **N'EX**, là một dịch vụ tàu tốc hành đặc biệt (limited express) hoạt động tại Nhật Bản từ năm 1991 bởi Công ty Đường sắt Đông Nhật Bản (JR East), kết
là một ga trên tuyến đường sắt chính ở Minato, Tokyo, Nhật Bản, quản lý bởi Công ty đường sắt Đông Nhật Bản (JR East), (JR Central), và công ty đường sắt tư nhân .
**USS _Theodore E. Chandler_ (DD-717)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
là một bộ chỉ huy thống nhất trực thuộc Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Hoa Kỳ (USINDOPACOM). Đơn vị được kích hoạt tại Phi trường Fuchū ở Tokyo, Nhật Bản, vào ngày
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**USS _Philip_ (DD/DDE-498)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Taylor_ (DD-468/DDE-468)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**USS _Bausell_ (DD-845)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Silverstein_ (DE-534)** là một tàu hộ tống khu trục lớp _John C. Butler_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Ticonderoga_ (CV/CVA/CVS-14)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo trong Thế Chiến II cho Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc tàu chiến thứ tư của Hải
**Hải quân Hoa Kỳ** (viết tắt: **USN**) là một quân chủng của Quân đội Hoa Kỳ và là một trong tám lực lượng vũ trang chuyên nghiệp của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2018, Hải
**_I-19_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
phải|_[[USS Bunker Hill (CV-17)|Bunker Hill_ bị tấn công bằng kamikaze do Thiếu úy Kiyoshi Ogawa điều khiển (ảnh bên dưới) và Trung úy Seizō Yasunori thực hiện vào ngày 11 tháng 5 năm 1945. Trong
**Không lực Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cũ: 大日本帝國海軍航空隊, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun Koukuu-tai_, phiên âm Hán-Việt: _Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân Hàng không Đội_) là binh chủng không quân của
**USS _Brinkley Bass_ (DD-887)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**USS _Archerfish_ (SS/AGSS-311)** là một tàu ngầm lớp _Balao_ của Hải quân Hoa Kỳ, và là con tàu đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo loài cá mang rổ. _Archerfish_ nổi
**USS _Walke_ (DD-723)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải
**USS _Alfred A. Cunningham_ (DD-752)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**Trận Manado** là một phần của các cuộc tiến công của Nhật Bản nhằm đánh chiếm Đông Ấn Hà Lan. Trận đánh diễn ra tại Manado (cũng được đánh vần Menado) trên bán đảo Minahasa
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**USS _Uhlmann_ (DD-687)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**USS _Kitty Hawk_ (CVA-63/CV-63)** là một siêu hàng không mẫu hạm của Hải quân Hoa Kỳ. Nó là chiếc đầu tiên trong số bốn chiếc của lớp tàu sân bay mang tên nó nhập biên
**USS _Waldron_ (DD-699)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải
**Trận Iwo Jima** (, , 19 tháng 2 — 26 tháng 3 năm 1945) là trận đánh lớn thuộc mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa Hoa Kỳ và
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
**USS _Horace A. Bass_ (APD-124/LPR-124)** là một tàu vận chuyển cao tốc lớp _Crosley_, nguyên được cải biến từ chiếc **DE-691**, một tàu hộ tống khu trục lớp _Rudderow_, và đã phục vụ cùng Hải
là một phi công Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Sakai là phi công ách chủ bài ("Gekitsui-O", 撃墜王) của Hải quân Nhật Bản có thành tích cao
**USS _Arnold J. Isbell_ (DD-869)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy
**USS _Stickell_ (DD-888)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**USS _Wallace L. Lind_ (DD-703)** là một tàu khu trục lớp _Allen M. Sumner_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất
**_I-372_** là một tàu ngầm vận tải thuộc lớp Type D1 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-2_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
Hôn nhân cùng giới không được công nhận tại Nhật Bản. Kể từ năm 2018, 9 thành phố và phường thành phố hợp pháp hóa quan hệ bạn đời cùng giới, cung cấp một số
**USS _New Jersey**_ (BB-62) (tên lóng "Big J" hay "Black Dragon" ) là 1 thiết giáp hạm thuộc lớp _Iowa_ và là con tàu thứ 2 của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo
**USS _Carpenter_ (DD-825/DDK-825/DDE-825)** là một tàu khu trục lớp _Gearing_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
**USS _Heermann_ (DD-532)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Mỹ
**_Kaga_** **(tiếng Nhật: 加賀**, _Gia Hạ_) là một tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh Thế giới thứ hai; là chiếc tàu sân bay thứ ba của Hải quân