✨Murasaki Shikibu

Murasaki Shikibu

Murasaki Shikibu (Kana: むらさきしきぶ; Kanji: 紫式部, Hán Việt: Tử Thức Bộ; 978—1019?) là biệt hiệu của một nữ văn sĩ cung đình thời Heian Nhật Bản, tác giả của cuốn tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên của nhân loại, kiệt tác Truyện kể Genji, được viết bằng tiếng Nhật vào khoảng năm 1000 đến 1012.

Cái tên Murasaki Shikibu chỉ là biệt hiệu của bà, không ai biết rõ tên thật của bà là gì và bà sinh ra ở đâu, chỉ biết bà thuộc dòng dõi dòng họ Fujiwara và mất tại Tokyo, tuy một địa điểm tham quan phía Bắc Kyoto hiện nay được coi như mộ của bà.

Biệt hiệu

Mặc dù các học giả đã dày công nghiên cứu nhưng không ai biết tên thực của Murasaki Shikibu và điều đó cũng phổ biến đối với nhiều nữ sĩ cung đình Nhật Bản. Ở nước Nhật thời Heian, điều coi là không đứng đắn khi nêu tên tuổi các phu nhân thuộc gia đình quyền quý, chỉ có ngoại lệ lạ lùng là tên cung phi của Thiên Hoàng và các Hoàng nữ thuộc hoàng gia thì được cho phép.

Biệt hiệu Shikibu (式部) chỉ chức vụ của cha bà, và Murasaki (紫) có thể xuất phát từ tên của một trong những nhân vật chính trong cuốn Truyện kể Genji, nàng Murasaki đẹp lộng lẫy và giống mối tình đầu của Genji như đúc, nên rất được hoàng tử Genji sủng ái; hoặc chỉ đơn giản có nghĩa là màu "tía" (thuộc dòng vương giả); hay loại hoa màu tím mang tên hoa murasaki (hoa đậu tía, còn được gọi bằng tên hoa Fuji cũng là nửa đầu trong tên dòng họ của bà, Fujiwara).

Tiểu sử

thumb|Chân dung mô phỏng Murasaki Shikibu.

Murasaki Shikibu thuộc cành thứ của dòng họ lớn đang trị vì đất nước là họ Fujiwara. Thành viên của gia tộc này làm chức nhiếp chính thay cho các Thiên hoàng trong suốt phần lớn thời Heian, cùng tổ phụ về phía họ nội 6 thế hệ trước đó với Fujiwara Michinaga, quan đại chưởng ấn điều khiển việc nước trong buổi đầu thế kỷ 11. Tuy nhiên khi Murasaki Shikibu mới ra đời chi họ của bà bị tụt xuống hạng thứ trong giới quý tộc cung đình. Cha bà, ông Fujiwara no Tametoki (藤原為時) chỉ là một nhà thơ, người có địa vị khiêm nhường ở thủ đô và đã 2 lần làm tỉnh trưởng tỉnh Echizen.

Không ai biết gì nhiều về thời thơ ấu của Murasaki Shikibu ngoài những điều bà tự nói với chúng ta. Trong lời mào đầu nổi tiếng của cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu (Murasaki Shikibu nikki) mô tả các biến cố triều đình từ cuối 1008 đến đầu 1010 cho chúng ta biết cha bà, thấy con gái có khả năng trong việc học hành, đã than phiền bà không sinh ra là con trai. Cha bà trở thành tỉnh trưởng Echizen ở duyên hải Biển Nhật Bản, phía bắc Tokyo, vào năm 990 và bà đã đi theo cha đến nơi nhậm chức cho đến khi lấy chồng thì trở về.

Murasaki vào triều hầu hạ thứ phi Akiko, con gái của Michinaga, trong cung điện Fujitsubo thời Thiên hoàng Ichijō (986-1011) trong khoảng giữa thập niên đầu của thế kỷ 11. Cuốn Nhật ký Murasaki Shikibu của Murasaki có nhắc đến sự ra đời của hai người con trai hoàng hậu và cả hai hoàng tử sau đó đều trở thành vua. Trong nhật ký của mình Murasaki cho biết bà vào triều ngày 29 tháng 12 âm lịch nhưng không cho biết năm, có thể là năm âm lịch 1005 và/hoặc 1006. Hoàng hậu Akiko góa chồng năm 1011, khi Thiên hoàng Ichijo băng hà, và Murasaki Shikibu còn ở lại trong cung phục vụ hai năm tiếp theo. Chịu sự giáo dục chu đáo, tỉ mỉ của một phụ nữ trẻ cùng tầng lớp trong cung, và mặc dầu có một trí tuệ khác thường, Murasaki Shikibu đã phải tiếp thu một cách chậm chạp nhưng chắc chắn tất cả những kiến thức văn hóa rộng lớn đương thời mà người thiếu phụ này truyền cho, từ lịch sử Trung Hoa, thơ ca trữ tình Trung Hoa và Nhật Bản cho đến các trước tác triết học Khổng giáo và Phật giáo.

Về truyện hư cấu bằng văn xuôi, bà cũng chỉ biết không nhiều hơn là những trước tác buổi đầu của chính người Nhật Bản vào thế kỷ 10 và ngay cả văn xuôi trong văn học Trung Hoa đương thời, vốn không phải là loại hình được người Trung Hoa ca ngợi hay thành thạo vào thời đó. Murasaki Shikibu lấy chồng khoảng năm 998 hoặc năm 999, chồng là một người bà con xa với bà. Có lý do để tin rằng, so với thời bấy giờ bà lấy chồng khá muộn, có lẽ vào tuổi 20. Bà sinh được một con gái vào năm 999 và góa bụa vào năm 1001.

Chịu nhiều đau khổ sâu sắc trong đời tư nên Murasaki Shikibu đã sớm rút lui khỏi thế giới trần tục và dồn sinh lực của đời mình vào việc học tập cũng như sáng tạo nghệ thuật. Bà đã đạt được những thành tích xuất sắc trong âm nhạc, thơ, hội họa, và đặc biệt là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Truyện kể Genji 54 chương, viết xong vào khoảng năm 1004, một kiệt tác đứng vào hàng lớn nhất của văn xuôi cổ điển Nhật Bản cũng như văn xuôi nhân loại.

Văn nghiệp

Sáng tác Truyện kể Genji

Vào thế kỷ 10 các tác giả viết tiểu thuyết cố gắng xây dựng nhân vật một cách thô sơ bằng cách viết các truyện hư cấu. Tuy nhiên, khi những cây bút viết về những đề tài như các chuyện dan díu ngấm ngầm ở chốn cung đình, thì sự xây dựng tính cách quá nhạt nhẽo khó có thể gọi là các cá tính nhân vật. Các nhật ký thế kỷ thứ 10 có thể là yếu tố tạo cảm hứng cho Murasaki Shikibu khi ít nhiều bộc lộ được tâm trạng và bản tính người chấp bút trên trang viết, nhưng muốn cho một điều tưởng tượng biến thành hiện thực hơn một điều thực thì phải có một bước nhảy lớn lao của trí tưởng tượng và Murasaki đã làm được điều đó.

Murasaki Shikibu viết Truyện kể Genji trong thời gian lui về sống trong đền Ishiyama bên hồ Biwa, với cảm hứng của những đêm trăng huyền ảo lung linh dưới đáy hồ. Vẻ đẹp đầy tính chất huyền thoại và đậm màu sắc hội họa đó đã in dấu trong nhiều phần của tác phẩm.

Tác phẩm khác

Ngoài Truyện kể Genji, Murasaki Shikibu còn để lại một tập nhật ký về đời riêng, cuốn Murasaki Shikibu nikki (1008-1010) tổng hợp trong đó nhiều thể loại văn học cổ điển được người viết sử dụng đan xen. Tập nhật ký đã vẽ ra nhiều tính cách sắc nét của những người cùng thời, có nét đặc sắc của một cây bút hội họa trong việc khắc họa tâm lý cũng như miêu tả ngoại hình. Nhiều đoạn trong nhật ký, như việc mô tả cuộc khai hoa mãn nguyệt của hoàng hậu khi sinh hoàng nam, miêu tả các cung nữ với những nét phát họa vẻ mặt, hành động và trang phục không bằng những cách ngôn và sự cường điệu, cho thấy những nhận thức sâu sắc và tinh tế của bà về con người. Về thơ, bà còn để lại nhiều bài thơ theo thể Renga (liên ca) được tuyển chọn trong một hợp tuyển thơ văn cổ, hàng trăm bài thơ đối đáp, ngâm vịnh trong cuốn Truyện kể Genji, và hiện nay Nhật Bản còn lưu giữ được tập thơ của bà trong kỷ yếu Hội thảo về thơ Murasaki Shikibu.

Câu nói đáng chú ý

Trong những bức thư của mình Murasaki Shikibu đề cập đến sự đố kỵ của một phụ nữ khác trong cung đối với học vấn của bà, đặc biệt là các thị nữ khi thấy bà đọc tác phẩm bằng chữ Hán đã bình phẩm rằng "ngày xưa chỉ có đàn ông có công có việc mới đọc những quyển sách như thế": Mọi thứ trên thế gian này thật phiền toái. Mặc kẻ khác nói gì ta sẽ quỳ trước Phật A-di-đà và cầu nguyện. Khi tâm trí ta thoát khỏi mọi phiền toái của thế gian này, ta sẽ không gắng gỏi để trở thành một vị thánh... Nhiều điều xảy ra với ta trong cuộc đời này khiến ta nghĩ rằng mình đã phạm phải những lỗi lầm ở kiếp trước và mọi việc khiến ta sầu khổ. Quan niệm về việc phạm tội lỗi ở kiếp trước thì sẽ gánh hậu quả ở kiếp này và việc chỉ có hy vọng vào cuộc đời sau này trên Thiên đường nếu gắn với A-di-đà rõ ràng bắt nguồn từ giáo lý Tịnh độ tông, tạo âm hưởng nghiệp quả (karma) chi phối số phận của nhân vật trong Truyện kể Genji.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
là một cuộn tranh (cuộn tranh truyền thống của Nhật Bản) được vẽ vào giữa thế kỉ 13. Bên cạnh việc lấy cảm hứng từ cuốn nhật ký riêng tư () của Murasaki Shikibu, một
**Murasaki Shikibu** (Kana: むらさきしきぶ; Kanji: 紫式部, Hán Việt: Tử Thức Bộ; 978—1019?) là biệt hiệu của một nữ văn sĩ cung đình thời Heian Nhật Bản, tác giả của cuốn tiểu thuyết theo nghĩa hiện
nhỏ|[[Murasaki Shikibu đã viết tác phẩm nhật ký của mình trong khoảng thời gian từ năm . Bà đã được mô tả trong bức vẽ năm của Komatsuken.]] là một tiêu đề chung cho tất
**_Truyện kể Genji_** , là một trường thiên tiểu thuyết của nữ sĩ cung đình Nhật Bản có biệt danh là Murasaki Shikibu sống dưới trướng của thứ phi Akiko trong cung Fujitsubo, triều đại
, hay , là con gái lớn của Fujiwara no Michinaga và là Hoàng hậu Nhật Bản tại vị từ năm 1000 đến năm 1011. Bà tiến cung cho Thiên hoàng Ichijou khi mới 12
**Thời kỳ Heian** (, _Heian-jidai_, âm Hán Việt: Bình An thời đại) là thời kì phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến 1185. Đây là
thumb|Thẻ bài thơ số 1 thumb|Ogura shikishi bởi Teika hay tên tiếng Việt là **_Thơ trăm nhà_**, là hợp tuyển thơ cổ Nhật Bản gồm 100 bài thơ _Waka_ (_hoà ca_) của 100 nhà thơ.
, ( 966–1017/1025) là một tác giả, nhà thơ người Nhật, và là nữ quan trong phủ của Hoàng hậu Teishi (Sadako) vào khoảng năm 1000, giữa thời kỳ Heian. Bà là tác giả của
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
cũng được gọi là là một học giả và nhà thơ vào đầu thời kỳ Heian. ## Cuộc đời Takamura là hậu duệ của Ono no Imoko, người từng giữ chức Kenzuishi, và cha của
. "Ga" trong tiếng Nhật có nghĩa là "hình ảnh" và "bijin" có nghĩa là người đẹp. Và vì phụ nữ thường đẹp hơn đàn ông, từ bijin có trong hầu hết tất cả các
nhỏ|211x211px|Ise no Taifu, trong tập _[[Ogura Hyakunin Isshu_.]] là nhà thơ _waka_ Nhật Bản, hoạt động tích cực vào tiền bán thế kỉ thứ 11. Ông nội của bà là Ōnakatomi no Yoshinobu cũng là
nhỏ|292x292px| Akazome Emon trong bản vẽ năm 1765, vẽ bởi [[Komatsuken.]] là một nữ thi sĩ _waka_ của Nhật Bản và là nhân vật lịch sử sống ở giữa thời kỳ Heian. Bà được liệt
## Nhận xét sơ bộ Chỉ có các nhà văn và nhà thơ Nhật Bản được đưa vào danh sách sau đây mà thôi. Thuật ngữ _nhà văn_, giống như thuật ngữ _văn học_, được
thumb|upright=1.5|_[[Ki no Tomonori_ bởi Kanō Tan'yū, 1648]] thumb|upright=1.5|_Bức tranh [[Quý bà Ise_ bởi Kanō Tan'yū, 1648.]] right|thumb|upright=1.5|_[[Kiyohara no Motosuke_ bởi Kanō Yasunobu, 1648]] right|thumb|upright=1.5|_[[Fujiwara no Kiyotada_ bởi Kanō Naonobu, 1648]] (Tam thập lục ca tiên)
nhỏ|320x320px| Một cảnh của Azumaya từ cuộn giấy thuộc sở hữu của Bảo tàng Nghệ thuật Tokugawa nhỏ|320x320px| Cảnh quan trong chương "Seki-ya", Bảo tàng Nghệ thuật Tokugawa nhỏ|320x320px| Cảnh "sawabi", Bảo tàng Nghệ thuật
là vị quan nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Dưới sự lãnh đạo của ông, gia tộc Fujiwara đã nắm quyền kiểm soát nền chính trị đất nước trong một thời gian dài. ##
**Nền văn hóa Nhật Bản** từ xa xưa đã mang nhiều nét độc đáo và đặc sắc riêng. Với vị trí địa lý đặc biệt khi bao quanh hoàn toàn bởi biển và do các
**Kawabata Yasunari** (tiếng Nhật: 川端 康成, かわばた やすなり; 14 tháng 6 năm 1899 – 16 tháng 4 năm 1972) là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba, sau Rabindranath
**Lịch sử thế giới** (còn gọi là **lịch sử loài người** và **lịch sử nhân loại**) là ghi chép về hành trình phát triển của nhân loại từ thời tiền sử cho đến hiện tại.
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Thập niên 1000** là thập niên diễn ra từ năm 1000 đến 1009. ## Chính trị và chiến tranh Sweyn I của Đan Mạch xâm chiếm Anh. ### Chiến tranh ### Xung đột ### Thuộc
**Hannya** (般若, âm Hán Việt là "Ban Nhược" hoặc "Bát Nhã") là một loại yêu quái trong quan niệm dân gian Nhật Bản. Hannya là đề tài thường xuất hiện trong kịch Nō và có
**Hoàng hậu** (chữ Hán: 皇后; Kana: こうごうKōgō; Hangul: 황후Hwang Hu; tiếng Anh: Empress consort) là danh hiệu dành cho chính thê của Hoàng đế, bởi Hoàng đế sách lập. Danh hiệu này tồn tại trong
**Hoàng thái hậu** (chữ Hán: 皇太后; Kana: こうたいごうKōtaigō; Hangul: 황태후Hwang Tae Hu; tiếng Anh: _Dowager Empress_, _Empress Dowager_ hay _Empress Mother_), thường được gọi tắt là **Thái hậu** (太后), là một tước vị được quy
thumb|Trường hận ca được ghi trong [[Đường thi tam bách thủ.]] **"Trường hận ca"** (chữ Hán: 長恨歌; Kana: ちょうごんか; tiếng Anh: _The Song of Everlasting Regret/Sorrow_; tiếng Pháp: _Chant des regrets éternels_) là một bài
là bút hiệu của nhà văn người Nhật . Bà là một trong những nhà văn quan trọng đầu tiên thời Minh Trị (1868 – 1912) và là nhà văn nữ chuyên nghiệp đầu tiên
thumb|[[Duchess de la Ferte và Vua Louis XV (trên đùi).]] **Phó mẫu** (chữ Hán: 傅母 hay 傅姆), cũng gọi nôm na **Nữ gia sư**, là một dạng nghề nghiệp hay chức danh dành cho các
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
là nhà thơ _waka_ Nhật Bản vào giữa thời kỳ Heian. Một trong những bài thơ của bà nằm trong tập thơ nổi tiếng _Ogura Hyakunin Isshu_. Bà có một tập thơ cá nhân mang
thumb|Tác phẩm nghệ thuật nói về _Miyabi_ vào [[thời kỳ Heian. _Truyện kể Genji_]] thumb|Tác phẩm nghệ thuật nói về _Miyabi_ vào [[thời kỳ Muromachi. (Kinkaku-ji ở Kyoto)]] là một trong những lý tưởng thẩm
là Thiên hoàng thứ 66 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Nhất Điều kéo dài từ năm 986 đến năm 1011. ## Tường thuật truyền thống Trước khi
, là gia tộc hậu duệ của gia tộc Nakatomi thông qua Ame-no-Koyane-no-Mikoto, là một gia tộc nhiếp chính quyền lực ở Nhật Bản. Gia tộc được mở đầu khi người sáng lập, Nakatomi no
thumb|Sơ đồ của Bình An kinh cho thấy vị trí của cung điện cũng như cung điện tạm thời Thổ Ngự Môn điện sau phát triển thành hoàng cung Kyoto hiện tại. Phía ngoài Đại
**Đỗ Nguyên Mai** còn gọi là **Mai Nguyen Do**, là nhà thơ và nhà hoạt động xã hội người Mỹ gốc Việt đến từ Santa Clarita, California. Cô theo học Trường Đại học Canyons rồi
**_Những điều đáng ghét_** là một trích đoạn được trích từ tác phẩm _Truyện Gối đầu_ của Sei Shōnagon, một nữ quan kiêm văn sĩ cung đình Nhật Bản sống vào giữa thời kỳ Heian
**Dế chuông** (Danh pháp khoa học: _Meloimorpha japonicus_; tiếng Nhật Bản: _Suzumushi_/鈴虫) là loài dế trong họ Gryllidae có nguồn gốc từ châu Á. Vào những đêm mùa thu, chúng sẽ cất tiếng gáy nghe