✨Meidum

Meidum

Meidum, Maydum hay Maidum (tiếng Ả Rập: ميدوم) là một di chỉ khảo cổ ở Hạ Ai Cập. Đây là khu nghĩa trang hoàng gia được sử dụng vào thời Cổ vương quốc, bao gồm một kim tự tháp lớn và nhiều ngôi mộ mastaba bằng gạch bùn. Meidum nằm cách thủ đô Cairo khoảng 100 km về phía nam. trái|nhỏ|Sơ đồ cấu trúc kim tự tháp Meidum

Lịch sử khảo cổ

Kim tự tháp Meidum được khai quật đầu tiên bởi John Shae Perring vào năm 1837, sau đó lần lượt là Karl Richard Lepsius (1843), Flinders Petrie (cuối thế kỷ 19), Ludwig Borchardt (1920), Alan Rowe (1928) và cuối cùng là Ali el-Kholi (thập niên 1970).

Flinders Petrie là người đầu tiên ghi lại tỉ lệ kích thước của kim tự tháp. Ông cho rằng, có thể kim tự tháp Meidum có thể cao đến 80 mét. Hiện nay kim tự tháp chỉ cao khoảng 65 mét, các cạnh dài khoảng 144 mét, độ dốc 51°.

Kim tự tháp Meidum

Kim tự tháp tại Meidum, thường được gọi là "Kim tự tháp bị sụp đổ", đúng như tình trạng của nó hiện nay. Đây là kim tự tháp duy nhất được xây dựng trong khu vực. Vào thế kỷ 15, nhà sử học Ai Cập Al-Maqrizi mô tả rằng, kim tự tháp trông như một ngọn núi có 5 bậc thang lớn, nhưng Kurt Mendelssohn cho rằng nó giống một "kim tự tháp 5 tầng hơn" là một ngọn núi. Vào thời điểm mà đoàn thám hiểm của vua Napoleon khảo sát (1799), nó chỉ còn có 3 tầng. Trong tiếng Ả Rập, tên của kim tự tháp el-haram el-kaddab có nghĩa là "Kim tự tháp giả", bởi vì nó không giống như một kim tự tháp thật sự. trái|nhỏ|Viên gạch bằng đá vôi từ đống đá vụn bên dưới kim tự tháp Không rõ chủ nhân thực sự của kim tự tháp này. Nó được cho là đã bắt đầu xây dưới thời trị vì của vua Huni và được hoàn thành dưới thời vua Sneferu. Kim tự tháp này được gán cho Huni bởi vì không có bất cứ công trình nào của ông được tìm thấy, mặc dù có thể một trong 7 kim tự tháp nhỏ trải dài từ Seila tới Elephantine. Tuy nhiên, xung quanh kim tự tháp Meidum là mộ của những người con trai của Sneferu, nên kim tự tháp này thuộc Sneferu có vẻ hợp lý hơn hoặc thời La Mã. Một số ngôi mộ đặc biệt được liệt kê dưới đây:

  • Mastaba M6: Mộ đôi của hai vợ chồng hoàng tử Rahotep, con của Sneferu và phu nhân Nofret. Bên trong ngôi mộ là 2 phòng chôn cất và 2 nhà nguyện nhỏ, trên tường là những bức phù điêu của hoàng tử. Bức tượng của 2 người được chạm khắc tinh xảo và được bảo quản khá tốt (hiện đang ở Bảo tàng Cairo).
  • Mastaba M16: Mộ đôi của hai vợ chồng hoàng tử Nefermaat I, con của Sneferu và phu nhân Itet. Cấu trúc và các phù điêu tương tự như mộ của Rahotep. Ngôi mộ M16 nổi tiếng với một cảnh trên phù điêu, được gọi là "Những con ngỗng Meidum" (hiện đang ở Bảo tàng Cairo).
  • Mastaba M17: Không rõ chủ sở hữu của ngôi mộ, có lẽ thuộc về một hoàng tử khác của Sneferu. Phòng chôn cất có một cỗ quan tài bằng granite đỏ, nhưng lại không đề tên của ai.giữa|nhỏ|459x459px|Phù điêu "Những con ngỗng Meidum" trong mộ của hoàng tử Nefermaat
👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Meidum**, **Maydum** hay **Maidum** (tiếng Ả Rập: ميدوم) là một di chỉ khảo cổ ở Hạ Ai Cập. Đây là khu nghĩa trang hoàng gia được sử dụng vào thời Cổ vương quốc, bao gồm
**Huni**, hay **Hoeni**, (2637 TCN - 2613 TCN) là vị pharaon cuối cùng của vương triều thứ 3 thuộc thời kỳ Cổ Vương Quốc. Theo bản danh sách vua Turin, ông thường được coi là
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
**Nefermaat I** là một hoàng tử và là tể tướng thuộc Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Tên của ông có nghĩa là "_Ma'at xinh đẹp_" hay "_Công lý hoàn
**Sneferu** (cũng còn gọi là **Snefru** hoặc **Snofru**), còn được biết đến với tên **Soris** theo tiếng Hy Lạp (bởi Manetho), là vị vua đã sáng lập nên vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ
**Kim tự tháp Đỏ**, còn được biết đến với tên gọi **kim tự tháp Bắc**, là kim tự tháp lớn nhất trong số ba kim tự tháp chính tại khu lăng mộ Dahshur. Được đặt
phải|Trang trí trần trong sảnh chính của Medinet habu Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin (Nile) vùng đông bắc châu
**Sekhemkhet** (còn được gọi là **Sechemchet**) là một vị pharaon của Vương triều thứ 3 thuộc thời kì Cổ Vương Quốc. Triều đại của ông được cho là kéo dài từ khoảng năm 2648 TCN
**Kim tự tháp Bent**, hay "Kim tự tháp cong", là kim tự tháp thứ hai được xây theo lệnh của pharaon Sneferu vào khoảng năm 2600 TCN. Nó có tên gọi chính thức là _Kim
**Nofret** là một phụ nữ sống ở Ai Cập cổ đại trong triều đại thứ tư của Ai Cập. _Nefert_ có nghĩa là "đẹp". Nofret còn được gọi là **Nefert** hoặc **Neferet**. ## Tiểu sử
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
Một mảnh vỡ của tấm bia đá Palermo ghi chép lại sự trở về của đội tàu dưới triều đại của Sneferu - Bảo tàng Petrie, London **Vương triều thứ Tư của Ai Cập cổ
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Meresankh._ **Meresankh I** là một vương hậu sống vào cuối thời kỳ Vương triều thứ 3 và đầu thời kỳ Vương triều thứ 4 trong lịch
**Abusir** (tiếng Ả Rập: ابو صير; tiếng Ai Cập: _pr wsjr_; tiếng Copt: ⲃⲟⲩⲥⲓⲣⲓ _busiri_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούσιρις, _"Ngôi nhà hay Đền thờ của thần Osiris"_) là một di chỉ khảo cổ
_Đối với pharaon cùng tên, xem Rahotep_
nhỏ|193x193px|Bức tượng nổi tiếng của Rahotep và Nofret **Rahotep** là một hoàng tử Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 4. Tên của ông nghĩa là "_thần
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Lepsius-Expedition-Cheops-Pyramide.jpg|nhỏ|300x300px|Các thành viên của đoàn thám hiểm người Phổ đến Ai Cập kỷ niệm ngày sinh của Hoàng đế [[Friedrich Wilhelm IV của Phổ|Frederick William IV trên đỉnh Đại kim tự tháp Giza]] **Danh sách
**Toán học Ai Cập cổ đại** là một nền toán học được phát triển và sử dụng tại Ai Cập cổ đại, từ khoảng 3000 TCN đến 300 TCN, từ Cựu Vương triều Ai Cập