✨Mark Webber (tay đua)

Mark Webber (tay đua)

Mark Alan Webber (sinh ngày 27 tháng 8 năm 1976 tại Queanbeyan, New South Wales) là một cựu tay đua và phát thanh viên người Úc. Webber đã tham gia Công thức 1 từ năm 2002 đến năm 2013. Anh đạt được vị trí tổng thể tốt nhất của mình vào các năm 2010, 2011 và 2013 với vị trí thứ ba. Anh cũng từng là á quân trong Giải vô địch FIA GT năm 1998 và Công thức 3000 (Formula 3000) năm 2001. Từ năm 2014 đến 2016, Webber đã thi đấu cho Porsche tại giải đua xe sức bền (WEC) do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Tại giải đua này, anh giành được danh hiệu vô địch thế giới vào năm 2015.

Đầu đời

Mark Webber được sinh ra trong một gia đình có cha mẹ thuộc tầng lớp trung lưu, đại lý xe máy và chủ trạm xăng Alan Webber và vợ là Diane, tại thị trấn Queanbeyan, New South Wales nằm ở Tablelands, trên bờ sông Queanbeyan, gần Canberra, vào ngày 27 tháng 8 năm 1976. Ông nội của anh là một người buôn bán củi. Webber có một chị gái tên là Leanne. Anh đã học tại Trường tiểu học Isabella Street và Trường trung học Karabar (KHS) gần đó. Webber đại diện cho KHS trong giải điền kinh và bóng bầu dục, đồng thời chơi bóng bầu dục, cricket và Australian football sau khi mẹ anh khuyến khích anh tham gia nhiều môn thể thao cùng một lúc. Anh đã hy vọng sẽ có đủ kinh nghiệm để đạt được tiến bộ trong công thức 1. Anh đã vượt qua vòng loại ở vị trí thứ 18 để tham dự chặng đua GP Úc mở đầu mùa giải và về đích thứ 5 sau khi nhiều tay đua khác bỏ cuộc ở vòng đầu tiên. Do đó, Stoddart đã giữ lại Webber trong phần còn lại của mùa giải. Tại chặng đua GP Tây Ban Nha, bốn chặng đua đua sau đó, Webber và đồng đội của anh, Alex Yoong, đã phải rút khỏi cuộc đua do ba lần hỏng mũi xe trong quá trình luyện tập. Anh vượt trội so với Yoong và tay đua thay thế Anthony Davidson ở hai chặng đua sau này vì anh ấy là tay đua Minardi duy nhất sử dụng hệ thống lái trợ lực do hạn chế về ngân sách. Webber đã thường xuyên đánh bại các đội Arrows và Toyota và kết quả tốt nhất của anh trong phần còn lại của mùa giải là thứ 8 tại chặng đua GP Pháp. Chung cuộc, Webber đứng thứ 16 với 2 điểm.

Jaguar (2003–2004)

2003

Năm 2002, ban quản lý của Webber đã lo ngại về tình hình tài chính của Minardi. Do đó, họ đã sắp xếp một buổi đua thử và đánh giá chiếc Jaguar R3 mạnh mẽ hơn vào giữa năm 2002. Toyota và Jaguar đã để ý đến Webber nhưng anh đã quyết định gia nhập Jaguar vào tháng 11 năm 2002 thay thế tay đua Eddie Irvine. Webber đã không chuẩn bị kỹ càng vì chiếc xe Jaguar R4 của anh có động cơ Cosworth V10 không đáng tin cậy và lốp sau nhanh mòn. Tại chặng đua thứ ba của mùa giải 2003 ở Brasil, anh đã vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ ba, vị trí cao nhất trong mùa giải của anh nhưng đã bị va chạm sau khi mất lái ở cuộc đua. Webber đã ghi điểm bảy lần trong năm 2003 và thành tích tốt nhất của anh là ba lần về vị trí thứ 6 và vị trí thứ 10 trong bảng xếp hạng các tay đua với 17 điểm. Webber ít gặp sự cố hơn so với thời gian thi đấu ở giải F3000 và thành tích tốt ở vòng phân hạng và cuộc đua của anh đã giúp anh vượt trội hơn cả Antônio Pizzonia và Justin Wilson. Anh được ca ngợi như một ngôi sao tương lai mặc dù chiếc xe có độ bền bỉ kém và hiệu suất yếu.

2004

Webber đã được đề nghị gia hạn hợp đồng thêm 5 năm nhưng thay vào đó anh đã ký gia hạn thêm 2 năm. Hiệu suất của chiếc xe đã mạnh hơn và anh thường xuyên vượt trội so với Christian Klien, người đồng đội người Áo được Red Bull hậu thuẫn. Anh đã đua với chiếc xe R5 kém hiệu quả và không đáng tin cậy khiến anh đã phải bỏ cuộc ở 8 trong số 18 chặng đua. Tuy nhiên, Webber đã ghi điểm bốn lần với vị trí thứ nhì trong mùa giải cao nhất tại giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia và về đích tốt nhất ở vị trí thứ 6 tại giải đua ô tô Công thức 1 Châu Âu. Anh xếp thứ 13 chung cuộc với 7 điểm sau khi mùa giải kết thúc.

Williams (2005–2006)

2005

nhỏ|Mark Webber ở [[giải đua ô tô Công thức 1 Canada 2005]] Webber đã tham gia đội, thay thế Ralf Schumacher và đua cùng với Nick Heidfeld trong phần lớn mùa giải và Pizzonia trong năm chặng đua cuối cùng sau chấn thương của Heidfeld. Chiếc xe FW27 của Williams kém về mặt khí động học do các đường hầm gió được hiệu chỉnh không chính xác. Vấn đề lớn nhất của chiếc xe này là thiếu tốc độ đua và xuất phát kém khiến anh mất vị trí sau khi thành tích tốt ở vòng phân hạng. Trong một buổi thử nghiệm trước mùa giải vào giữa tháng Hai, anh đã bị gãy xương sườn bên trái và tổn thương sụn sườn khi không tập đúng cách trước khi lái xe. Trong hai chặng đua đầu tiên của mùa giải, anh đã thi đấu với thuốc giảm đau do giám đốc y tế của Liên đoàn Ô tô Quốc tế Gary Hartstein kê cho anh để kiểm soát cơn đau do những chấn thương này. Webber về thứ ba ở Monaco và đó là lần đầu tiên lên bục podium trong sự nghiệp của mình và tiếp tục ghi được thêm điểm trong mười chặng đua tiếp theo vào năm 2005. Vị trí xuất phát tốt nhất của anh là vị trí thứ hai ở Tây Ban Nha. Webber đã tham gia vào 5 vụ va chạm trong các cuộc đua và bị bỏng ở hông bên phải tại Pháp do nhiệt từ hộp điện tử bên ngoài bị hỏng xâm nhập vào buồng lái ô tô của anh. Anh đứng thứ 10 trong bảng xếp hạng các tay đua với 36 điểm.

2006

Mặc dù đã được Frank Williams và giám đốc kỹ thuật Patrick Head thông báo về thành tích kém cỏi của anh, Webber đã quyết định ở lại Williams cho mùa giải năm 2006 vì không có tay đua nào khác muốn lái cho đội. Anh trở nên xa cách với Williams và không thích ban quản lý của nó vì anh ấy mong chờ được cảm thấy thoải mái ở đó nhưng anh đã tiếp tục ở lại với đội vì lòng trung thành với Williams. Đồng đội của Webber năm đó là tay đua tân binh và nhà vô địch giải GP2 Series người Đức Nico Rosberg. Chiếc xe FW28 của anh ấy dùng lốp Bridgestone và động cơ Cosworth V8 sau khi BMW chấm dứt quan hệ đối tác với Williams và mua lại đội Sauber. Webber đứng thứ 14 chung cuộc với 7 điểm trên BXH các tay đua. Kết quả tốt nhất của anh là hai vị trí thứ sáu ở Bahrain và San Marino.

Red Bull (2007–2013)

2007

nhỏ|Mark Webber ở [[giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia 2007]]

Webber đã từ chối kéo dài hợp đồng với Williams sau khi anh được đề nghị ít tiền hơn cho một hợp đồng hai năm. Sau đó, anh chuyển đến đội Red Bull Racing. Việc đó đã được xác nhận vào tháng 8 năm 2006 và anh thay thế đồng đội cũ Christian Klien và hợp tác với tay đua người Scotland David Coulthard giàu kinh nghiệm. Trước mùa giải, Webber đã bàn luận với cố vấn của Red Bull và chủ sở hữu đội đua cho tay đua trẻ Helmut Marko về cách đối xử của ông ta với các tay đua trẻ nhưng ông chủ Christian Horner yêu cầu anh nên tuân theo Marko để tránh xung đột. Chiếc xe RB3 là một chiếc xe nhanh nhưng không có độ bền bỉ đáng tin cậy, khiến Webber phải bỏ cuộc bảy chặng đua trong mùa giải. Anh đã ghi điểm đầu tiên của mình trong mùa giải này sau khi cán đích thứ bảy tại giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ và lên bục podium thứ hai trong sự nghiệp với vị trí thứ ba tại giải đua ô tô Công thức 1 Châu Âu. Webber một lần nữa ghi điểm với vị trí thứ bảy khác tại giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản mưa ướt, tay đua người Đức Sebastian Vettel của đội Scuderia Toro Rosso thấp cấp hơn đâm vào đuôi xe của anh và điều đó khiến cả hai phải bỏ cuộc. Sau mùa giải, anh lấy được 10 điểm và đứng thứ 12 ở bảng xếp hạng các tay đua và đánh bại đồng đội Coulthard 15 lần ở vòng phân hạng.

2008

Webber tiếp tục ở lại Red Bull vào năm 2008 và một lần nữa đua với Coulthard. Anh thường đạt kết quả tốt trong vòng phân hạng và ghi điểm ở chín trong số 18 chặng đua của mùa giải và thỉnh thoảng mạnh hơn so với những tay đua có chiếc xe đua cạnh tranh hơn. Kết quả tốt nhất của anh trong mùa giải này là vị trí thứ tư tại giải đua ô tô Công thức 1 Monaco. Kết quả cao nhất trong trong mùa giải tại vòng phân hạng là vị trí thứ hai ở giải đua ô tô Công thức 1 Anh nhưng anh về đích thứ mười trong cuộc đua vì thời tiết ẩm ướt. Sau đó, thành tích của Webber trong phần còn lại của mùa giải giảm sút do Red Bull quyết định không phát triển tốc độ của chiếc xe để có thể tập trung vào việc chế tạo một chiếc xe mới nhằm tuân thủ những thay đổi về quy định được áp dụng cho năm 2009. Anh ghi được 21 điểm và đứng thứ 11 trong bảng xếp hạng các tay đua sau khi mùa giải kết thúc.

2009

Webber vẫn ở lại đội vì thành tích của mình vào năm 2008 nhưng đồng đội mới của anh là tay đua người Đức Sebastian Vettel, người được thăng lên từ Toro Rosso để thay thế Coulthard. Webber ghi điểm ở bảy trong tám chặng đua đầu tiên, trong đó có ba lần lên bục podium và điều đó đã khiến anh trở thành ứng cử viên vô địch. Thành tích của anh được cải thiện khi bộ khuếch tán đôi của chiếc xe đua RB5 mới được sử dụng. Tại giải đua ô tô Công thức 1 Đức, Webber đã giành được chiến thắng đầu tiên trong sự nghiệp sau khi xuất phát từ vị trí pole đầu tiên của mình. Đồng thời, anh cũng đã lập kỷ lục số lần xuất phát cuộc đua trong sự nghiệp nhiều nhất trước khi giành chiến thắng đầu tiên cho đến khi Sergio Pérez phá kỷ lục đó tại chặng đua GP Sakhir 2020 khi bắt đầu chặng đua thứ 190 của anh ta. Tại chặng đua áp chót của mùa giải ở Brasil, Webber đã giành chiến thắng thứ hai trong sự nghiệp sau khi cầm chân Button. Tại chặng đua cuối cùng của mùa giải ở Abu Dhabi, anh về nhì và sau mùa giải, anh đứng ở vị trí thứ tư chung cuộc với 69,5 điểm.

Đời tư

Webber sống ở ngôi làng nhỏ Aston Clinton thuộc Buckinghamshire với vợ là Ann Neal và anh là cha dượng của con trai cô từ mối quan hệ trước.

Thống kê thành tích

Chú thích:

  • KXH = Không xếp hạng
  • KXP = Không xuất phát
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Mark Alan Webber** (sinh ngày 27 tháng 8 năm 1976 tại Queanbeyan, New South Wales) là một cựu tay đua và phát thanh viên người Úc. Webber đã tham gia Công thức 1 từ năm
alt=A picture of Lewis Hamilton donning Mercedes Grand Prix attire.|thumb|[[Sebastian Vettel trở thành nhà vô địch bốn lần liên tiếp với Red Bull Racing.]] thumb|upright|[[Fernando Alonso đứng thứ nhì trong bảng xếp hạng các tay
nhỏ|300x300px|[[Sebastian Vettel của Red Bull Racing là nhà vô địch của giải đua xe Công thức 1 năm 2012]] nhỏ|297x297px|[[Fernando Alonso của Ferrari kết thúc ở vị trí á quân.]] nhỏ|200x200px|[[Kimi Räikkönen của Lotus kết
**Giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc 2012** (tên chính thức là **2012 Formula 1 UBS Chinese Grand Prix**) diễn ra vào ngày 15 tháng 4 tại trường đua Shanghai International ở Thượng
**Giải đua ô tô Công thức 1 Úc 2012** (tên chính thức là **2012 Formula 1 Qantas Australian Grand Prix**) được tổ chức tại trường đua Albert Park ở Melbourne vào ngày 18 tháng 3
**Giải đua ô tô Công thức 1 Ả Rập Xê Út 2025** (tên chính thức là **Formula 1 STC Saudi Arabian Grand Prix 2025**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào
**Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain 2012** (tên chính thức là **2012 Formula 1 Gulf Air Bahrain Grand Prix**) được tổ chức vào ngày 22 tháng 4 tại trường đua Bahrain International ở
thumb|alt=Istanbul Park is in a rural area and is paved with tarmac. It has large concrete and gravel run-off areas, large grandstands and a substantial pit building and paddock.|Toàn cảnh trường đua Istanbul Park **Chặng
**Trường đua Istanbul Park** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ **Intercity İstanbul Park**), là một trường đua xe chuyên dụng nằm ở đô thị Tuzla, thành phố Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Trường đua hiện đang đăng cai
**Giải đua ô tô Công thức 1 Bahrain** (, tên chính thức là **Gulf Air Bahrain Grand Prix** vì lý do tài trợ) là một chặng đua Công thức 1 diễn ra tại Bahrain. Cuộc
**Giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi** () là một chặng đua Công thức 1 diễn ra hàng năm kể từ năm 2009 ở trường đua Yas Marina, Các Tiểu vương quốc Ả
**Giải đua ô tô Công thức 1 Úc 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Rolex Australian Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 24 tháng 3
**Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha 2012** (tên chính thức là **Formula 1 Gran Premio de España Santander 2012**) diễn ra vào ngày 13 tháng 5 tại trường đua Catalunya ở
**Sebastian Vettel** (; sinh ngày 3 tháng 7 năm 1987) là một tay đua người Đức và là nhà vô địch Công thức 1 bốn lần. Từ năm 2007 đến năm 2022, anh đã tham
**Nick Lars Heidfeld** (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1977 tại Mönchengladbach) là một cựu tay đua người Đức. Anh đã từng thi đấu trong công thức 1 từ năm 2000 đến năm 2011. Anh
thumb|upright|[[Sebastian Vettel bảo vệ chức vô địch thành công và vượt qua Fernando Alonso để trở thành nhà vô địch kép trẻ nhất trong lịch sử Công thức 1.]] thumb|upright|[[Jenson Button (McLaren) đứng ở vị
**Kimi Räikkönen** (tên đầy đủ **Kimi Matias Räikkönen,** phát âm IPA: ; sinh ngày 17 tháng 10 năm 1979 tại Espoo, Phần Lan), biệt danh **Ice Man**, là tay đua Công thức 1 người Phần
**Sir** **Lewis Carl Davidson Hamilton** (sinh ngày 7 tháng 1 năm 1985) là tay đua Công thức 1 người Anh, hiện đang thi đấu cho đội đua Scuderia Ferrari. Hamilton là một trong những tay
**Giải đua xe Công thức 1 2025** là một giải đua xe mô tô đang được tổ chức dành cho các xe đua Công thức 1 với tư cách ​​là mùa giải Công thức 1
**Giải đua xe Công thức 1 2005** là mùa giải thứ 56 của Công thức 1 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải đua này diễn ra trong vòng 19 cuộc
**Robert Józef Kubica** (, sinh ngày 7 tháng 12 năm 1984) là một tay đua người Ba Lan. Tính đến năm 2022, anh là tay đua người Ba Lan duy nhất thi đấu ở Công
**_Scott Pilgrim vs. the World_** được đạo diễn bởi Edgar Wright, dựa trên bộ graphic novel Scott Pilgrim của Bryan Lee O'Malley. Phim nói về Scott Pilgrim (Michael Cera), một nhạc công trẻ người Canada
**Scuderia Toro Rosso** () thường được gọi là **Toro Rosso** hoặc viết tắt **STR**, là một đội đua Công thức 1 cũ của Ý. Toro Rosso là một trong hai đội Công thức 1 thuộc
**Panasonic Toyota Racing** là một đội Công thức 1 cũ thuộc sở hữu của nhà sản xuất ô tô Nhật Bản Toyota và có trụ sở tại Köln, Đức. Toyota công bố kế hoạch tham
**_Tế xác_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Jessabelle_**) là phim điện ảnh kinh dị siêu nhiên của Mỹ năm 2014 do Kevin Greutert đạo diễn và Ben Garant viết kịch bản. Phim có sự tham gia
**Teresa Mary Palmer** (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1986) là một nữ diễn viên, nhà văn, nhà sản xuất và người mẫu Úc. Palmer đóng phim đầu tay năm 2006, khi cô xuất hiện
**_Cats_** (tạm dịch: "Tộc mèo") là một vở nhạc kịch thuần hát xuất xứ từ Anh do Andrew Lloyd Webber sáng tác dựa trên tuyển tập thơ _Old Possum's Book of Practical Cats_ của T.
300x300px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 1 tháng 1 ** Roger Bonvin trở thành tổng thống liên bang Thụy Sĩ. ** Angola, Mozambique, Cabo Verde, Timor, São Tomé và Príncipe và Ma Cao
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 5 * 5 tháng 5: Thành lập trường quân sự Hoàng Phố ### Tháng 10 * 23 tháng 10: Phùng Ngọc Tường phát động chính biến tại Bắc Kinh
**Gary Barlow**, OBE, sinh ngày 20 tháng 1 năm 1971 tại Frodsham, Cheshire, Anh, là ca sĩ, người viết nhạc và thủ lĩnh của ban nhạc nổi tiếng Take That, đồng thời là giám khảo
**Câu lạc bộ bóng đá Torquay United** là một câu lạc bộ bóng đá đến từ Torquay, Devon, Anh. Đội đang thi đấu ở sau khi vô địch National League South mùa giải 2018-19. Đội
**Dirk Werner Nowitzki** (, ; sinh ngày 19 tháng 6 năm 1978) là một cựu cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp người Đức. Anh cao 2,13 m, được coi là một trong những tiền phong
**Dame Angela Brigid Lansbury** DBE (16 tháng 10 năm 1925 – 11 tháng 10 năm 2022) là một nữ diễn viên kiêm ca sĩ người Ai len - Anh - Mỹ. Bà xuất hiện rất
**_Chú cừu Shaun_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Shaun the Sheep_**, còn có tên gọi khác là **_Những chú cừu thông minh_**) là một bộ phim hoạt hình tĩnh vật hài không lời nói của Anh
**Viện Đại học Harvard** (tiếng Anh: _Harvard University_), còn gọi là **Đại học Harvard**, là một viện đại học tư thục, thành viên của Liên đoàn Ivy nằm ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ. Với lịch
**Gilbert và Sullivan** (, viết tắt **G&S** trong ngữ cảnh) là bộ đôi sân khấu thời đại Victoria gồm nhà viết kịch W. S. Gilbert (1836–1911) và nhà soạn nhạc Arthur Sullivan (1842–1900). Trong giai
Ngày **1 tháng 3** là ngày thứ 60 (61 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 305 ngày trong năm. ## Sự kiện * 293 – Hoàng đế Diocletianus và Maximianus bổ nhiệm Constantius Chlorus
**Robert William Gary Moore** (4 tháng 4 năm 19526 tháng 2 năm 2011) là một nhạc công và nhạc sĩ người Bắc Ireland. Trong suốt sự nghiệp âm nhạc, ông chơi trong nhiều nhóm nhạc