Loạn Quách Bốc (chữ Hán: 郭卜之亂, Quách Bốc chi loạn) là cuộc binh biến cuối thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, thúc đẩy thêm sự suy yếu của nhà Lý và mở ra việc nắm chính trường của họ Trần.
Hoàn cảnh
Thời Lý Cao Tông, vua thích hưởng lạc xa xỉ, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi. Lòng dân oán hận, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân và ly khai của các hào trưởng địa phương nổ ra.
Tháng 3 năm 1207, hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương và Hải Phòng) là Đoàn Thượng, Đoàn Chủ nổi dậy, xưng vương hiệu. Lý Cao Tông phái rất nhiều quân đi đánh. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh, Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho tướng Phạm Du, nhờ Du xin hộ với triều đình. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho.
Đầu năm 1209, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Phạm Du bèn chiêu tập những người vong mệnh nổi dậy chống triều đình. Lý Cao Tông liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên) để đánh Phạm Du.
Sau nhiều trận giao tranh, tháng 2 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh bại Phạm Du. Phạm Du thua trận bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết. Sang tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh tan quân Đoàn Thượng.
Phạm Du ngầm sai người về kinh đút lót cho bọn quan lại trong triều, nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết hại người vô tội và kể lể tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin cẩn; cha con Bỉnh Di cùng bộ tướng Quách Bốc mang quân về kinh sau.
Phạm Bỉnh Di cùng con là Phạm Phụ vào triều phụng mệnh, Quách Bốc ở ngoài thành. Cao Tông sai bắt cha con Bỉnh Di giam ở Thủy Viên.
Diễn biến
Lý Cao Tông nghe lời gièm của Phạm Du, bắt cha con Phạm Bỉnh Di định giết.
Quách Bốc đóng quân ở ngoài thành nghe tin đó, bèn đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu chủ. Trong lúc quân Quách Bốc và quân triều đình đang giằng co ngoài cửa, Cao Tông thấy việc kíp quá, sai giải Bỉnh Di và Phụ vào chỗ bệ đá nghỉ mát trong điện Kim Tinh. Phạm Du cùng em là Phạm Kinh ở trong ngự đường đi ra, lấy luôn binh khí trong cung đâm chết cha con Bỉnh Di rồi cùng Cao Tông bỏ kinh thành Thăng Long chạy trốn.
Quách Bốc nghe tin cha con Bỉnh Di bị giết bèn sai quân sĩ đột nhập vào chỗ bệ đá trong điện Kim Tinh. Lúc đó vua Cao Tông và anh em Phạm Du đã chạy trốn. Quách Bốc sai quân lấy xe ngự chở xác Bỉnh Di, lấy chiếu ngự bọc xác của Phạm Phụ, theo cửa Việt Thành khiêng xuống bến Triều Đông an táng.
Quách Bốc liền vào cung Vạn Diên tôn người anh thứ của Thái tử Sảm là Lý Thầm lên làm vua. Một số đại thần trong đó có Thái sư Đàm Dĩ Mông (em của Hoàng hậu Đàm thị) quy phục Lý Thẩm và Quách Bốc.
Lý Cao Tông chạy về Tam Nông (Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực. Thái tử Lý Sảm cùng mẹ là Nguyên phi Đàm thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình đang dưới quyền cai quản của Trần Lý.
Lý Sảm chạy trốn đến ở nhà Trần Lý, lấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung làm vợ, lại phong cho Trần Lý tước Minh Tự, em vợ Lý là Tô Trung Từ (cậu Thị Dung) làm Điện tiền Chỉ huy sứ. Hai người chiêu tập quân đội dưới danh nghĩa giúp Thái tử Sảm để đánh Quách Bốc.
Trần Lý và Tô Trung Từ mang quân đánh về kinh thành đánh dẹp Quách Bốc. Sử sách ghi rất sơ lược về diễn biến này. Cuối năm 1209, loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung. Do Phạm Du đã chết mà thế lực Trung Từ mạnh nên vua Cao Tông dựa vào phe Trung Từ. Đàm Dĩ Mông trước đã hàng phục Lý Thẩm và Quách Bốc vẫn không bị trị tội, được làm chức Thái úy.
Sử sách chép không rõ về kết cục của Quách Bốc (cũng như Lý Thầm). Đại Việt sử ký toàn thư ghi đại lược: "Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau". Khâm định Việt sử thông giám cương mục cũng ghi vắn tắt: "Vua xét tội tùy theo nặng nhẹ có sai biệt". Sách Việt sử tiêu án không đề cập tới việc xử tội phe Quách Bốc.
Hậu quả
Loạn Quách Bốc khiến triều đình nhà Lý càng thêm suy yếu trầm trọng. Cuộc chiến giữa các sứ quân, hào trưởng địa phương ngày càng hỗn loạn và nhà Lý không còn khả năng trấn áp.
Sau khi Tô Trung Từ chết (1211), dòng họ Trần ngoại thích từ Hải Ấp vào Thăng Long, dần dần nắm trọn quyền hành. Thái tử Sảm nối nghiệp trở thành vị vua (Lý Huệ Tông) không có thực quyền và nhà Lý mất ngôi 15 năm sau đó.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Loạn Quách Bốc** (chữ Hán: 郭卜之亂, _Quách Bốc chi loạn_) là cuộc binh biến cuối thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, thúc đẩy thêm sự suy yếu của nhà Lý và mở ra
**Quách Bốc** là tướng nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông cầm đầu cuộc biến loạn đánh đuổi vua Lý Cao Tông năm 1209. ## Cứu chủ chống vua Không rõ Quách Bốc sinh,
**Quách Tùng Khiêm** (; ? – 927), nghệ danh **Quách Môn Cao** (郭門高), là tướng lĩnh nhà Hậu Đường thời Ngũ Đại trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Quách Tùng Khiêm vốn là
**Quách Tương** (tiếng Trung: 郭襄, bính âm: _Guō Xiāng_) (trong bản dịch trước năm 1975, nàng có tên là **Quách Tường**) là nhân vật trong tiểu thuyết _Thần điêu hiệp lữ_ của Kim Dung. Nàng
VĂN TẾ LONG LINH KIẾN QUỐC ĐẠI VƯƠNG Hỡi trời cao Oan ức thay, sao bỗng gieo tai Ôi đất thắm Cay nghiệt thế, cớ chi rắc hoạ Để Người ra đi còn luyến tiếc
**Loạn An Sử** (chữ Hán: 安史之亂: _An Sử chi loạn_) là cuộc biến loạn xảy ra giữa thời nhà Đường vào thời Đường Huyền Tông Lý Long Cơ trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Lý Cao Tông** (chữ Hán: 李高宗 6 tháng 7 năm 1173 – 15 tháng 11 năm 1210) là vị hoàng đế thứ bảy của nhà Lý, cai trị từ năm 1175 đến năm 1210. Thời
**Quách Tử Nghi** (chữ Hán: 郭子儀; 5 tháng 9, 697 – 9 tháng 7, 781), là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà
**Trần Tự Khánh** (chữ Hán: 陳嗣慶;1175 – 3 tháng 1 năm 1224), là một chính trị gia, viên tướng trứ danh thời kỳ suy vong của triều đại nhà Lý, người lãnh đạo chính thống
**Bộc Cố Hoài Ân** (, ?-765) là tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông dự triều chính từ thời Đường Huyền Tông đến thời Đường Đại Tông và tham gia dẹp loạn An
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
**Trần Lý** (chữ Hán: 陳李; 1151 - 1210), hay **Trần Nguyên Tổ** (陳元祖), là ông của Trần Thái Tông, người sáng lập ra triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông chính là
**Lý Huệ Tông** (chữ Hán: 李惠宗; tháng 7 năm 1194 – 3 tháng 9 năm 1226) là vị hoàng đế thứ tám của nhà Lý, cai trị từ năm 1210 đến năm 1224. Ông tên
**Loạn Tô Tuấn** (chữ Hán: 蘇峻之亂, Tô Tuấn chi loạn), gọi đầy đủ là **loạn Tô Tuấn, Tổ Ước** (chữ Hán: 蘇峻, 祖約之亂, Tô Tuấn, Tổ Ước chi loạn) nổ ra vào năm Hàm Hòa
**Lý Thẩm** hoặc **Lý Thầm** (李忱) (1202-?) là một vị vua nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên ông không được sử sách xếp vào các vua chính thống. ## Thân thế Lý
**Trần Thủ Độ** (chữ Hán: 陳守度, 1194 – 1264), cũng gọi **Trung Vũ đại vương** (忠武大王), là một nhà chính trị Đại Việt, sống vào thời cuối triều Lý đầu triều Trần trong lịch sử
**Tô Trung Từ** (chữ Hán: 蘇忠詞, ?-1211) là tướng cuối thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Phò Lý thái tử Sử sách không chép rõ về xuất thân của Tô Trung Từ,
**Loạn Hầu Cảnh** (chữ Hán: 侯景之乱, _Hầu Cảnh chi loạn_) là cuộc nổi dậy chống lại triều đình nhà Lương của hàng tướng Hầu Cảnh đến từ nhà Đông Ngụy, diễn ra từ tháng 8
**Phạm Bỉnh Di** (范秉彛 1150-1209) là tướng nhà Lý trong lịch sử Việt Nam dưới thời Lý Cao Tông. ## Chiều ý vua Sử sách không ghi chép về thân thế, quê quán của Phạm
**Loạn Chu Cao Hú** (), còn được gọi là **Loạn Cao Hú** () hoặc **Biến cố Định Nan** (), là một sự kiện xảy ra vào năm đầu niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh (1426),
**An Toàn Hoàng hậu** (chữ Hán: 安全皇后), còn gọi là **Lý Cao Tông Đàm hậu** (李高宗譚后) hay **Đàm Thái hậu** (譚太后), là Hoàng hậu của Hoàng đế Lý Cao Tông, mẹ đẻ của Hoàng đế
**Trường Thơ Loạn** (1937 (?)- 1946) do Hàn Mặc Tử chủ xướng thành lập tại Bình Định. Đây là một tập hợp của một số thi sĩ trong phong trào Thơ mới, có chung một
**Rối loạn mỡ máu** (tiếng Anh: Dyslipidemia) là một rối loạn chuyển hóa do xáo trộn các chất mỡ trong máu: hoặc quá nhiều hoặc quá ít các chất lipoprotein. Bệnh thường biểu hiện qua
**Linh Từ Quốc mẫu** (chữ Hán: 靈慈國母,1193[?]–1259), hay còn gọi là **Kiến Gia Hoàng hậu** (建嘉皇后), **Thuận Trinh Hoàng hậu** (順貞皇后) hay **Huệ hậu** (惠后), là Hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý với tư
**Loạn Hầu Cảnh** (chữ Hán: 侯景之乱, Hầu Cảnh chi loạn) là cuộc nổi dậy của tướng lĩnh nhà Đông Ngụy là Hầu Cảnh chống lại quyền thần Cao Trừng diễn ra từ tháng 2 năm
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Lý Nguyên Hoàng** (; ? – 1221), hay **Nguyên vương** (元王) là một vị vua nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế Lý Nguyên Hoàng không được sử sách xác định tên
**Nguyễn Tự** (?-1212) là tướng nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến giữa các sứ quân cuối thời Lý. ## Ly khai Sử sách không ghi chép rõ xuất thân
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Thiên Cực công chúa** (chữ Hán: 天極公主) là một nhân vật lịch sử vào cuối thời nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Hành trạng của bà xuất hiện vào khoảng đầu thế kỉ 13
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Mã Siêu** (chữ Hán: 馬超, bính âm: Mǎ Chāo, 176-222), tự **Mạnh Khởi** (孟起), là một võ tướng cuối thời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông mang trong mình
**Đàm Dĩ Mông** (chữ Hán: 譚以蒙) là đại thần ngoại thích nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Ông giữ chức phụ chính dưới 2 triều vua Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. ##
**Tân Đảng** (chữ Hán: 辛谠), người Kim Thành , tấm gương trung nghĩa thời Vãn Đường, có công bảo vệ Tứ Châu trong cuộc nổi loạn của Bàng Huân. ## Xuất thân Tân Đảng là
**Lý Khắc Dụng** (chữ Hán: 李克用, 856-908), vốn có họ **Chu Tà** (chữ Hán: 朱邪), còn đọc là Chu Gia hay Chu Da (chữ Hán: 朱爷). Ông là danh tướng cuối đời nhà Đường, người
**Trận Đồng Quan 756** (chữ Hán: 潼關之戰 _Đồng Quan chi chiến_) là trận chiến giữa quân đội nhà Đường và quân Đại Yên – tức lực lượng nổi dậy của tướng An Lộc Sơn. Trận
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Nhạc Tiến** (chữ Hán: 樂進; ?-218), tự Văn Khiêm, là một võ tướng dưới quyền Tào Tháo cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông được miêu tả là có phần thấp bé
**Phạm Du** (chữ Hán: 范猷 ? – 1209) là tướng nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, dưới triều vua Lý Cao Tông - vị vua thứ bảy của nhà Lý. ## Đối đầu với
**Trận Nghiệp Thành 758-759** (chữ Hán: 邺城之战 - _Nghiệp Thành chi chiến_) là trận chiến trong loạn An Sử giữa chính quyền nhà Đường và chính quyền Đại Yên giữa thế kỷ 8 trong lịch
**_Thái sư Trần Thủ Độ_** là một bộ phim truyền hình lịch sử Việt Nam được thực hiện bởi Hãng phim truyện I do Đào Duy Phúc làm đạo diễn. Phim lấy nguyên mẫu từ
**Trận Tuy Dương** (chữ Hán: 睢陽之戰 _Tuy Dương chi chiến_) là cuộc chiến giữa nhà Đường và chính quyền Đại Yên, là một phần của loạn An Sử giữa thế kỷ 8 trong lịch sử
**Trần Chân** (chữ Hán: 陳真, 1470-1518) là tướng Đại Việt cuối thời Lê sơ, người xã La Khê, huyện Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Ông đã đóng vai trò quan trọng trong việc đánh
**Đoàn Thượng** (chữ Hán: 段尚, 1181-1228) là vị tướng cuối thời nhà Lý đời vua Lý Cao Tông và Lý Huệ Tông. Ông là hào trưởng vùng Hồng và là chủ soái của sứ quân
**Trần Lân** (chữ Hán: 陈璘, 1543 – 1607), tự **Triều Giác(朝爵)**, hiệu **Long Nha** , Ông sinh ra ở huyện Văn Nguyên, phủ Thiều Châu (nay là huyện Văn Nguyên, thành phố Thiều Quan, tỉnh
**Lý Quang Bật** (chữ Hán: 李光弼; 708-15/8/764) là danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công dẹp loạn An Sử, trung hưng nhà Đường. ## Thân thế Lý Quang Bật là
**Ngũ đại Thập quốc** (, 907-979) là một thời kỳ trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ khi triều Đường diệt vong, kéo dài đến khi triều Tống thống nhất Trung Quốc bản thổ.
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Tào Tháo** (; ; (155– 15 tháng 3 năm 220), biểu tự **Mạnh Đức** (孟德), tiểu tự **A Man** (阿瞞) là nhà chính trị, nhà quân sự và còn là một nhà thơ nổi tiếng