✨Lê Văn Đức

Lê Văn Đức

Lê Văn Đức (chữ Hán: 黎文德; 1793 – 1842), là danh tướng trải hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị trong lịch sử Việt Nam.

Sự nghiệp

Ông là người ở huyện An Bảo , nay thuộc tỉnh Bến Tre. Năm Gia Long thứ 12 (1813), Lê Văn Đức thi đỗ cử nhân khoa Quý Dậu, được bổ làm Tri huyện ở Tri Viễn.

Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), triệu ông về Huế, bổ làm Lang trung bộ Công, rồi lần lượt trải các chức: Thiêm sự, Ký lục trấn Bình Hòa sung Giám thị trường Nam Định, Hữu thị lang bộ Công, Hữu thị lang bộ Binh, Toản tu bách quan chức chế.

Năm 1828, cử ông làm Tham tri bộ Binh, lại sung chức phụ việc coi thi Hội, rồi thăng Thự Thượng thư bộ Binh.

Lê Văn Đức có một người con trai là Lê Tăng Mậu, được vua Thiệu Trị gả em gái là Phương Duy Công chúa Vĩnh Gia (con gái thứ 12 của vua Minh Mạng), phong làm Phò mã Đô úy. Theo Đại Nam liệt truyện, phò mã Mậu mất vào năm Tự Đức thứ 8 (1855).

Ra Bắc

Tháng 7 (âm lịch) năm 1833, một người Tày ở Bảo Lạc (Tuyên Quang) tên là Nông Văn Vân khởi binh chống lại sự cai trị của triều Minh Mạng, Lê Văn Đức liền được sung chức Tham tán quân vụ đại thần.

Đánh giải vây được thành tỉnh Tuyên Quang, nhà vua sung ông làm Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, cử Thự Tổng đốc Hải An Nguyễn Công Trứ làm Tham tán, để cùng dẫn đại binh đi đánh Vân Trung (Bảo Lạc, là nơi đặt đại bản doanh của Nông Văn Vân.

Sau nhiều tháng hành quân gian lao và hiểm nguy, vì địa hình hiểm trở lại thường xuyên bị phục kích, nên đến cuối năm ấy (1833, đại binh của ông mới vào phá được Vân Trung. Việc tấu lên, Lê Văn Đức được thưởng quân công. Nhưng trên đường trở về thành Tuyên Quang, bị đối phương phục kích, làm chết và bị thương nhiều lính, khiến ông bị triều đình khép vào tội tử. Song nghĩ đến công lao của ông, vua Minh Mạng chỉ cho giáng bốn cấp, cắt hết lương bổng, tước bỏ mũ áo và buộc phải lấy công chuộc tội .

Tháng 6 năm Giáp Ngọ (1834), sau khi củng cố lại lực lượng, Nông Văn Vân cùng với các thuộc hạ dẫn cả ngàn quân đi đánh chiếm tỉnh thành Cao Bằng lần thứ hai. Hốt hoảng, các quan đầu tỉnh đều bỏ chạy. Hay tin, nhà vua lại cử Lê Văn Đức làm Tổng đốc đạo Tuyên Quang để cùng với các tướng lĩnh khác mang quân đi trấn áp. Bị thua trận, Nông Văn Vân trốn trong rừng Thẩm Pát ở Tuyên Quang, rồi bị quân triều phóng lửa đốt rừng. Theo sử nhà Nguyễn thì sau đó (tháng 3 (âm lịch), năm 1835), Nông Văn Vân bị chết cháy .

Xét công lao, Lê Văn Đức được phong là Ân Quang tử, thăng trật Hiệp biện Đại học sĩ, nhưng vẫn lĩnh chức Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, để tiếp tục truy bắt các thuộc hạ của Nông Văn Vân hiện vẫn còn đang lẩn trốn.

Ít lâu sau, Lê Văn Đức được đổi làm Tổng đốc Định Yên (Nam Định và Hưng Yên), rồi được triệu về kinh sung Cơ mật viện đại thần, lĩnh chức Thượng thư bộ Công, kiêm bộ Lại và công việc ở Quốc tử giám. Cũng trong khoảng thời gian này, tên ông được cho khắc vào bia đá đặt ở trước sân Võ miếu Huế vừa mới được lập.

Khi ông còn làm nhiệm vụ ở Tuyên Quang, vì sơ suất đã để cho Nguyễn Quang Khải trốn khỏi ngục mà không bắt lại được, năm 1839, ông bị nhà vua truy tội, giáng làm Tả thị lang bộ Hộ, chuyên lo việc trị thủy ở kinh đô Huế.

Làm tốt công việc, ông lại được thăng Tham tri, sung vào việc đi tìm kiểu đất tốt xây lăng cho vua. Sau khi hoàn thành, ông lại được phong hàm Thượng thư sung làm Trấn Tây khâm sai đại thần vào tháng 6 (âm lịch) năm 1840.

Vào Nam

Khi đến Trấn Tây thành (tức Chân Lạp đổi thành vào năm 1835), ông cùng với tướng Trương Minh Giảng dẫn quân đi đánh đuổi quân Xiêm La và trấn áp các cuộc nổi dậy của người Chân Lạp. Tháng 8 (âm lịch) năm 1840, Khâm sai Lê Văn Đức được nhà vua cho kiêm chức Tham tán.

Ngày 20 tháng 1 năm 1841, vua Minh Mạng mất, Nguyễn Phúc Miên Tông lên nối ngôi tức vua Thiệu Trị. Xem xét việc Trấn Tây, nhà vua thăng Lê Văn Đức làm Thượng thư bộ Binh nhưng vẫn làm Tham tán ở Trấn Tây. Tháng 3 năm ấy, Lê Văn Đức bị bệnh phải xin về nước, được nhà vua cho làm Tổng đốc Định Biên (Gia Định và Biên Hòa).

Đến tháng 9 cùng năm (1841), nghe lời tâu của triều đình, nhà vua cho rút hết quan quân ở Trấn Tây Thành về An Giang và Hà Tiên, vì xứ Chân Lạp vẫn luôn bất ổn. Bởi không hoàn thành nhiệm vụ ở đó, ông (và các tướng lĩnh khác) bị đình nghị rồi bị giáng ba cấp nhưng vẫn cho lưu chức. Chẳng lâu sau đến kỳ xét công, ông lại được thăng hàm Thiếu bảo.

Năm 1842, quân Xiêm La lại sang xâm lấn vùng biên giới Châu Đốc-Hà Tiên, Lê Văn Đức liền được thăng thự Hiệp biện Đại học sĩ, sung Tổng thống tiễu bộ quân vụ đại thần, để hiệp cùng các tướng ở các quân thứ cùng lo việc chống ngăn. Ông tâu xin triều đình cho củng cố các đồn bảo phòng thủ dọc biên giới ở An Giang, Hà Tiên, Định Tường. Ông cũng là người khởi xướng việc xin cho đào con kênh nối từ Châu Giang sang Tân Châu.

Sau khi đánh đuổi được quân xâm lược và quân nổi dậy ở đây, Lê Văn Đức được triệu về Huế nhận thưởng.

Tháng 11 (âm lịch) năm ấy, nhà vua lại cử ông làm Kinh lược đại thần để đi xem xét việc quân ở 6 tỉnh thuộc Nam Kỳ. Tuy bị bệnh, ông vẫn cố gắng lên đường, nhưng đến Quảng Nam thì mất ở tuổi 49.

Thương tiếc, nhà vua gia tặng cho ông hàm Thái bảo, cho đưa quan tài về quê chân cất và cử quan đến tế. Năm Tự Đức thứ 10 (1857), Lê Văn Đức được thờ trong đền Hiền Lương.

Tuy là một võ tướng, nhưng Lê Văn Đức cũng là người thích làm thơ. Tác phẩm của ông có: Chu nguyên tạp vịnh.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lê Văn Đức** (chữ Hán: 黎文德; 1793 – 1842), là danh tướng trải hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị trong lịch sử Việt Nam. ## Sự nghiệp Ông là người ở huyện An Bảo
Họa phẩm của Jean-Léon Gérôme về nữ [[nô lệ da trắng thời La Mã cổ đại đang bị bày bán ở chợ nô lệ]] **Nô lệ tình dục** hay nói rộng ra là **chế độ
Với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Bệnh viện Lê Văn Thịnh được phân loại xếp hạng I theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế. Trong đó, luôn đề cao thái độ, phong cách
Với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng, Bệnh viện Lê Văn Thịnh được phân loại xếp hạng I theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế. Trong đó, luôn đề cao thái độ, phong cách
**Giải thưởng Lê Văn Thiêm** là giải thưởng của Hội Toán học Việt Nam dành cho những người nghiên cứu, giảng dạy toán và học sinh giỏi toán xuất sắc ở Việt Nam được trao
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Giuse Lê Văn Ấn** (1916–1974) là một giám mục Công giáo người Việt. Ông là giám mục tiên khởi của giáo phận Xuân Lộc, quản lý giáo phận này từ năm 1965 cho đến khi
**Lê Văn Phú** (?-1854), hiệu: **Lễ Trai**; là một danh thần trải bốn triều vua là Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Lê Văn
**Lê Văn Hẳn** (sinh ngày 12 tháng 10 năm 1970) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Uỷ ban
**Lê Hoằng Dục** (, ? - ?) tự **Đạo Minh** () là một võ quan triều Lê sơ. Hành trạng của ông được xác thực bởi _Minh thực lục_ và _Đại Việt sử ký toàn
**Lê Văn Hưu** (chữ Hán: 黎文休;1230-1322) là một nhà sử học đời nhà Trần, tác giả bộ _Đại Việt sử ký_, bộ quốc sử đầu tiên của Việt Nam. Bộ sách này không còn nhưng
nhỏ|Ông Lê Văn Trương **Lê Văn Trương** (1906-1964), bút hiệu **Cô Lý**, là nhà báo, nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học Việt, hiện nay (2009), ông được
**Phanxicô Xaviê Lê Văn Hồng** (sinh 1940) là một giám mục Công giáo người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng Giám mục Tổng giáo phận Huế, cũng từng giữ chức Phó Chủ tịch Hội đồng
**Lê Huỳnh Đức** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1972) là một huấn luyện viên kiêm diễn viên và cựu cầu thủ bóng đá người Việt Nam. Hiện nay, ông đang dẫn dắt câu lạc
**Lê Văn Hiểu** (tức Lê Tiến Hàn, hay Hàn Tiến, Trịnh Đào, Quan Phủ Tướng Hàn, 1601 - 1654) là một tướng lĩnh Việt Nam vào thế kỷ 17, thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông sinh
**Lê Văn Linh** (黎文靈 hay 黎文零, 1376 - 1448) là công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, làm quan trải ba triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê
**Lê Hữu Đức** (3 tháng 9 năm 1925 – 11 tháng 8 năm 2018) là Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó giáo sư người Việt Nam. Ông nguyên là Phó Tư lệnh,
**Lê Văn Thành** (20 tháng 10 năm 1962 – 22 tháng 8 năm 2023) là một chính trị gia Việt Nam. Ông nguyên là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Phó
**Lê Văn Công** (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1984) là một vận động viên cử tạ người Việt Nam. Anh là vận động viên Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương vàng của Paralympic,
** Giacôbê Lê Văn Mẫn** (1922 – 2001) là một linh mục được bí mật tấn phong Giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma tại Việt Nam. Ông được Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn
**Lê Văn Sao** (sinh năm 1967) là một tướng lĩnh của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam với quân hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Phó Tư lệnh Bộ Tư lệnh
**Lê Văn Minh** (sinh ngày 30 tháng 11 năm 1964) là một thẩm phán người Việt Nam. Ông hiện là Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao của Việt Nam, thành viên Hội đồng
**Lê Văn Cương** là Phó Giáo sư, Tiến sĩ Triết học, Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược Bộ Công an Việt Nam. Ông là một
**Lê Văn Duyệt** (1763 hoặc 1764 – 28 tháng 8 năm 1832) còn gọi là **Tả Quân Duyệt**, là một nhà chính trị, nhà quân sự lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là một
**Lê Văn Hưng** (chữ Hán:黎文興, ?-1794?) là một danh tướng của nhà Tây Sơn. Ông được tôn xưng là một trong Tây Sơn thất hổ tướng. Xuất thân trong một gia đình giàu có, buôn
**Lê Văn Thiêm** (29 tháng 3 năm 1918 – 3 tháng 7 năm 1991) là tiến sĩ toán học đầu tiên của Việt Nam, giáo sư toán học và là một trong số các nhà
**Lê Văn Dũng** (sinh ngày 20 tháng 10 năm 1966) là chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban
**Lê Hiền Đức** (sinh 12 tháng 12 năm 1932) là một nhà giáo hưu trí người Việt Nam, một người tích cực đấu tranh chống tham nhũng, và là một trong hai người đoạt Giải
**Lê Văn Huân** (1876 - 1929), hiệu **Lâm Ngu**; là một chí sĩ theo đường lối kháng Pháp ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp Ông
**Lê Văn Thanh** (黎文清) là tướng lĩnh của phong trào Tây Sơn. ## Hành trạng Lê Văn Thanh tham gia phong trào Tây Sơn khi nào không rõ, nhưng ông là tướng lĩnh cao cấp
**Lê Văn Phong** (1769 - 1824) là tướng của chúa Nguyễn - Nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử Ông sinh năm Kỷ Sửu (1769) tại làng Long Hưng, huyện Kiến Hưng,
**Lữ Văn Đức** (chữ Hán: 吕文德 hay 徳, ? – 1269), xước hiệu là _Hắc hôi đoàn_ (nắm tro đen), người huyện An Phong, Túc Châu , là tướng lĩnh kháng Mông cuối đời Nam
**Lê Văn Nghiêm** (1912 – 1988) nguyên là một cựu tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông xuất thân từ trường Sĩ quan của Quân đội thuộc địa Pháp mở
Trong khuôn khổ Lễ ký niệm 289 năm (1735 - 2024) ngày mất Đức Khai Trấn MẠC CỬU, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Kiên Giang (KITRA) phối hợp
Trong khuôn khổ Lễ ký niệm 289 năm (1735 - 2024) ngày mất Đức Khai Trấn MẠC CỬU, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Kiên Giang (KITRA) phối hợp
Trong khuôn khổ Lễ ký niệm 289 năm (1735 - 2024) ngày mất Đức Khai Trấn MẠC CỬU, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Kiên Giang (KITRA) phối hợp
Trong khuôn khổ Lễ ký niệm 289 năm (1735 - 2024) ngày mất Đức Khai Trấn MẠC CỬU, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Kiên Giang (KITRA) phối hợp
Trong khuôn khổ Lễ ký niệm 289 năm (1735 - 2024) ngày mất Đức Khai Trấn MẠC CỬU, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Kiên Giang (KITRA) phối hợp
Trong khuôn khổ Lễ ký niệm 289 năm (1735 - 2024) ngày mất Đức Khai Trấn MẠC CỬU, Trung tâm Xúc tiến Đầu tư, Thương mại và Du lịch tỉnh Kiên Giang (KITRA) phối hợp
**Lê Văn Hưng** (1933 - 1975) nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên tại trường Sĩ
**Lê Quả Dục** (1833-1899), tự là _Toàn Thanh_, hiệu là _Dưỡng Chính Trai_; là một nhà giáo, nhà thơ và là một viên quan nhà Nguyễn theo đường lối kháng Pháp ở cuối thế kỷ
Quyền Giáo tông **Lê Văn Trung** (1876-1934), thánh danh là **Thượng Trung Nhựt**, là một trong những nhà lãnh đạo tôn giáo Cao Đài, có những đóng góp quan trọng trong giai đoạn hình thành
**Lê Văn Lan** (sinh năm 1934, người Hà Nội) là phó chủ tịch Hội đồng khoa học Khu di tích lịch sử đền Hùng, một trong những người sáng lập Viện sử học Việt Nam,
phải|Tượng đài thánh Mátthêu Lê Văn Gẫm ở phía trước [[nhà thờ Huyện Sĩ]] **Matthêu Lê Văn Gẫm** là một vị thánh Công giáo. ## Bối cảnh lịch sử Năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI
**Dương Ngọc Chúc** bút danh **Lê Văn Duy** hay **Lê Hằng** (15 tháng 9 năm 1942 – 27 tháng 1 năm 2024) là nhà văn, đạo diễn, biên kịch điện ảnh Việt Nam. Ông được
**Dương Văn Đức** (1925 - 2000) nguyên là một cựu tướng lĩnh của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân Viễn Đông của
**Lê Văn Kiệt** (1911–1970), bí danh **Nguyễn Công Dương**, **Lê Lai**, là một nhà cách mạng, nhà lãnh đạo công đoàn Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban hành chính kháng
**Lê Văn Kỷ** (chữ Hán: 黎文紀; 1892-1959) là một nhà khoa bảng Việt Nam. Ông đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi 1919, khoa thi Nho học cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam.
Trong khuôn khổ Lễ hội kỷ niệm 289 năm ngày mất Đức khai trấn Mạc Cửu (1735-2024), điểm nhấn là Tuần lễ Văn hóa - Ẩm thực Hà Tiên năm 2024 diễn ra từ ngày
Trong khuôn khổ Lễ hội kỷ niệm 289 năm ngày mất Đức khai trấn Mạc Cửu (1735-2024), điểm nhấn là Tuần lễ Văn hóa - Ẩm thực Hà Tiên năm 2024 diễn ra từ ngày