✨Kinh Thánh Tiếng Việt (1926)

Kinh Thánh Tiếng Việt (1926)

Kinh Thánh tiếng Việt xuất bản năm 1925 là bản dịch đầu tiên toàn bộ Kinh Thánh Tin Lành sang tiếng Việt, được phát hành tại Việt Nam. Bản Kinh Thánh Việt ngữ 1925 được phổ biến rộng rãi và rất được yêu thích trong cộng đồng Kháng Cách tại Việt Nam. Đối với nhiều tín hữu Tin Lành, bản dịch này đã ghi dấu ấn sâu đậm trên tình cảm tôn giáo của họ.

Tuy nhiên, vì là một ấn bản khá cổ xưa, văn phong trong một số câu, đoạn của Bản Kinh Thánh Việt ngữ 1925 không còn thích hợp với ngữ cảnh hiện nay, cũng như một số từ ngữ trở nên khó hiểu với độc giả đương đại. Nhiều bản dịch Kinh Thánh khác đã được phát hành, nhưng cho đến nay, chưa có bản dịch nào có thể thay thế vị trí của Bản Kinh Thánh tiếng Việt 1925.

Bối cảnh

[[Alexandre de Rhodes.]] Sau khi đặt chân đến Việt Nam, vì nhu cầu học hỏi tiếng Việt (lúc đó còn dùng chữ Hán và chữ Nôm) để giao tiếp với người bản xứ, các nhà truyền giáo phương Tây đã ghi lại bằng cách phiên âm tiếng Việt dưới dạng chữ La-tinh. Gaspard de Amaral với Từ Vựng Việt Nam - Bồ Đào Nha, và Antoine de Barbosa với Từ Vựng Bồ Đào Nha – Việt Nam đã góp sức hoàn chỉnh lối chữ viết này. Nhưng nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes được xem là người có công trong nỗ lực định chế chữ quốc ngữ qua cuốn tự điển phiên âm Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum do ông soạn và ấn hành năm 1651.

Tuy nhiên, gần 250 năm sau phát minh chữ quốc ngữ, Giáo hội Công giáo mới phát hành những phần Kinh Thánh đầu tiên bằng tiếng Việt, và trong gần 100 năm kế tiếp Giáo hội cũng chỉ cho phổ biến giới hạn trong vòng hàng giáo phẩm các bản dịch Kinh Thánh Việt ngữ, vì một số lý do.

Ngược lại, cộng đồng Kháng Cách với niềm xác tín được thể hiện qua tín lý Sola scriptura, "Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa, là thẩm quyền và sự mặc khải duy nhất đến từ Thiên Chúa được ban cho mọi người (nghĩa là mọi người có thể hiểu và tự giải thích Kinh Thánh)", đã xem việc phổ biến Kinh Thánh là nhân tố quyết định trong nỗ lực truyền bá phúc âm, thành lập các giáo đoàn, và gây dựng đời sống tâm linh cho tín hữu.

Chỉ 5 năm sau khi Tin Lành truyền bá đến Việt Nam, năm 1916, những nhà lãnh đạo Tin Lành đã khởi sự dịch thuật toàn bộ Kinh Thánh sang tiếng Việt. Đến năm 1926, cộng đồng Tin Lành tại Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình.

Các dấu mốc

Giáo hội Công giáo xuất bản sách giáo nghi, trong đó có một số sách Phúc âm, phát hành tại Bangkok, Thái Lan năm 1872.

Jean Bonnet thuộc Trường Ngôn ngữ Đông phương Paris dịch Phúc âm Lu-ca sang tiếng Việt dựa trên bản Kinh Thánh Pháp ngữ Ostevald, và được Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản tại Paris năm 1890, đến năm 1898, được tái bản lần đầu tiên.

Thánh Kinh Hội Anh Quốc phát hành Phúc âm Mác năm 1899, Phúc âm Giăng năm 1900, và Công vụ các Sứ đồ năm 1903.

Năm 1913, P.M. Hosler thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp dịch lại Phúc âm Mác ra chữ Nôm, và xuất bản tại Quảng Tây, Trung Hoa.

Năm 1913-14, Giáo hội Công giáo xuất bản Thánh Kinh Cựu Ước song ngữ với bản Vulgata, và bản Tân Ước in song ngữ Việt – La-tinh theo bản Vulgata (năm 1916) do Albert Schlicklin (Cố Chính Linh) thực hiện, và được phát hành tại Hong Kong.

Năm 1925, Giáo hội Công giáo cho xuất bản cuốn Các sách Phúc âm của Marcos Gispert-Forcadell.

Chữ Quốc ngữ được lựa chọn như là một ưu tiên mặc dù một học giả Việt Nam có chức trách dịch các sách Phúc âm ra chữ Nôm, từ bản dịch của Wenli. William C. Cadman và vợ, Grace Hazenberg Cadman - bà Cadman đã hoàn tất chương trình cao học chuyên ngành tiếng Hebrew và tiếng Hy Lạp, hai ngôn ngữ được sử dụng để viết Cựu Ước và Tân Ước - bắt đầu công cuộc dịch thuật từ năm 1914. [[John Drange Olsen|J. D. Olsen.]] Năm 1919, ông bà Cadman trở lại với công việc dịch thuật Kinh Thánh, lần này có sự cộng tác của học giả Phan Khôi Đến năm 1925, họ hoàn tất bản dịch Cựu Ước, và in bản in đầu tiên tại Thượng Hải. Bản in lần thứ 2 vào năm 1926.

Sau khi được duyệt xét kỹ lưỡng bởi các văn sĩ, mục sư, giáo sĩ, kể cả Olsen, toàn bộ Kinh Thánh được in tại Hà Nội năm 1926.

Khi Thánh Kinh Hội Anh Quốc nhận tài trợ và xuất bản,

Ảnh hưởng

Trong giai đoạn này, chữ Quốc ngữ ngày càng phổ thông trong khi sách, báo, tạp chí còn hiếm. Nhiều người khao khát tìm đọc bất cứ gì họ có trong tay. Theo thói quen thời ấy, trong nhiều gia đình ở Việt Nam, khi tìm được một quyển sách mới, vào mỗi tối, dưới ánh đèn dầu, một người đọc lớn tiếng cho cả nhà cùng nghe trong khi mỗi người vẫn tiếp tục công việc của mình. Dưới ảnh hưởng Khổng Mạnh, hầu hết sách đều được quý trọng và đọc cách nghiêm túc. Đây là cơ hội để Kinh Thánh, các phần của Kinh Thánh, và các loại truyền đạo đơn được phân phối rộng rãi, và thường được đón nhận cách tích cực.

Nhà in Tin Lành, thành lập năm 1920 tại Hà Nội, phải hoạt động cật lực để đáp ứng nhu cầu xuất bản Kinh Thánh, các phần của Kinh Thánh, cùng các loại ấn phẩm tôn giáo khác. Năm 1922, William C. Cadman, người thành lập và điều hành nhà in, báo cáo, "việc bán các phần Kinh Thánh, sách và truyền đạo đơn rất chạy, đến nỗi nhà in khó mà in kịp các sách tái bản." còn nhà văn Tô Hoài nói, "Kinh Thánh cả Tân Ước, Cựu Ước của hội đạo Tin Lành, người ta bảo ông (Phan Khôi) dịch thuê, khi ấy ở Hải Phòng, tôi cũng có đọc. Có chương Nhã Ca lời rất thơ". Tác giả cuốn "Người Quảng Nam", Lê Minh Quốc, viết về sự đóng góp của Phan Khôi đối với bản dịch Kinh Thánh 1925, "Giai đoạn này, ông đã làm một việc khó ai ngờ là sử dụng bản chữ Hán đối chiếu với bản chữ Pháp để dịch Kinh Thánh cho hội Tin Lành. Bản dịch của ông câu cú gãy gọn, trong sáng, văn phạm chuẩn mực, chứng tỏ một trình độ học vấn uyên thâm".

Tác giả bài viết "Người dịch Kinh Thánh Tin Lành ra tiếng Việt" đưa ra nhận xét, "Tôi tin chắc rằng bản Kinh Thánh Việt ngữ xuất bản năm 1925 đã ăn sâu vào trong tâm khảm của những tín hữu Tin Lành tại Việt Nam, tôi được biết có nhiều tín hữu Tin Lành đã thuộc nằm lòng khá nhiều câu Kinh theo bản dịch ấy đến nỗi khó có thể thay đổi đi được trong tâm họ. Thậm chí có không ít những Mục Sư, tín hữu Tin Lành quả quyết rằng chỉ có bản dịch Kinh Thánh năm 1925 của nhà văn Phan Khôi là số một mà thôi, không bản dịch nào hơn cả và rồi họ chỉ dùng độc có bản dịch đó để đọc, để học, để chia sẻ, để giảng dạy. Nói như vậy để cho thấy rằng bản dịch Kinh Thánh năm 1925 đã có một chỗ đứng rất vững vàng trong lòng rất nhiều những người theo đạo Tin Lành tại Việt Nam trong một thế kỷ trôi qua. Ngoài nhà văn, dịch giả Phan Khôi ra, được biết còn có nhà văn, dịch giả Trần Văn Dõng, cũng có góp phần trong việc dịch Kinh Thánh ra Việt ngữ nữa."

Tuy nhiên, theo thời gian cùng với sự thay đổi, chuyển hóa của ngôn ngữ, một số từ trong bản Kinh Thánh tiếng Việt năm 1926 trở nên cổ, một số từ mà ngữ nghĩa đã thay đổi, một số cách diễn đạt không còn thích hợp và trở nên khó hiểu đối với độc giả hiện nay.

Với sự bảo trợ của Liên hiệp Thánh Kinh Hội (UBS), công tác hiệu đính bản Kinh Thánh Việt ngữ 1926 khởi sự từ năm 1999, đến năm 2004 hoàn tất hiệu đính bản Tân Ước, và bản Cựu Ước vào cuối năm 2007. Sau khi thu nhận nhiều ý kiến đóng góp và qua ba kỳ hội thảo về công tác hiệu đính trong những năm 2005, 2007, và 2009, bản Hiệu đính được phát hành năm 2010.

Sách tham khảo

*Lê Hoàng Phu, "Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam (1911 - 1965)", Nhà xuất bản Tôn giáo, 2010.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Kinh Thánh tiếng Việt xuất bản năm 1925 là bản dịch đầu tiên toàn bộ Kinh Thánh Tin Lành sang tiếng Việt, được phát hành tại Việt Nam. Bản **Kinh Thánh Việt ngữ 1925** được
Chữ Quốc ngữ – tức bảng chữ cái tiếng Việt hiện đại – vốn được các giáo sĩ Dòng Jesus người Bồ Đào Nha và Ý sáng tạo nên, và được linh mục Alexandre de
**Shiloh** (tiếng Hebrew: có thể thay đổi giữa שִׁלוֹ,שִׁילֹה,שִׁלֹה, và שִׁילוֹ) là một thành phố cổ đại ở vùng Samaria, được nhắc đến trong Kinh Thánh Hebrew. Nó đã được nhận diện một cách chắc
**Tin Lành** (chữ Anh: _Protestantism in Vietnam_), là một tôn giáo thuộc Cơ Đốc giáo được truyền vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XX và hiện là một cộng đồng tôn giáo thiểu số,
**John Drange Olsen** (23 tháng 7 năm 1893 – 10 tháng 2 năm 1954), là nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp, Đốc học Trường Kinh Thánh Đà Nẵng, thành viên
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
nhỏ|phải|Người Hoa ở Sài Gòn vào đầu thế kỷ 20 Người gốc Hoa sống tại Thành phố Hồ Chí Minh tập trung ở quận 5, quận 6, quận 8, quận 10 và quận 11. Theo
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Phan Thanh** (1 tháng 6 năm 1908 – 1 tháng 5 năm 1939) là một chính khách kiêm nhà báo người Việt Nam. Ông là đảng viên Đảng Xã hội Pháp (S.F.I.O), dân biểu của
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** (phiên âm tiếng Việt: "Bê-lô-rút-xi-a", , , viết tắt _БССР_, _Bielorusskaja Sovietskaja Socialistitchieskaja Riespublika_, BSSR hoặc đôi khi Byelorussia còn gọi là **Belorussia**) là một trong
Báo **_Tiếng Dân_** là cơ quan ngôn luận độc lập đầu tiên tại An Nam (Trung Kỳ), do ông Huỳnh Thúc Kháng (1876–1947), một nho gia thuộc trường phái duy tân, phát hành. Tòa soạn
**Grace Hazenberg Cadman** (27 tháng 9 năm 1876 - 26 tháng 4 năm 1946) là nhà truyền giáo và dịch thuật Kinh Thánh. Cùng với chồng, William Charles Cadman, bà khởi xướng và đóng góp
**Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh** (_, thường được gọi tắt là **UAH**)_ là trường đại học chuyên ngành, giữ vai trò tiên phong trong lĩnh vực đào tạo và nghiên
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Việt Nam quốc sử khảo** (chữ Hán: 越南國史考) là một trong những sáng tác tiêu biểu của nhà cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940). Tác phẩm này đã được Georges Boudarel, một tác giả người
**Thánh Gioan Thánh Giá** (tiếng Tây Ban Nha: _San Juan de la Cruz_) (14 tháng 6 năm 1542 - 14 tháng 12 năm 1591) là một nhân vật lớn trong cuộc Cải cách Công giáo,
**Trường Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn** là một trường trung học phổ thông công lập của Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là trường trung học đầu tiên của Sài Gòn, được thành
**Tôn giáo tại Việt Nam** khá đa dạng, gồm có Phật giáo (cả Đại thừa, Nguyên thủy và một số tông phái cải biên như Hòa Hảo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương,
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 8 tháng 1: Vua Bảo Đại chính thức kế vị * 11 tháng 1: Trương Tác Lâm tuyên bố 3 tỉnh đông bắc Trung Quốc độc lập
**Francesco Forgione,** còn được biết đến với tên **Thánh Piô Năm Dấu**, **Cha Piô** (tiếng Ý: _Padre Pio_)**, Cha Thánh Piô, Cha Thánh Piô Năm Dấu, Thánh Padre Pio, Thánh Piô Pietrelcina** và **Thánh Piô
**_Trang Tử_**, hay còn được biết đến rộng rãi hơn trong tiếng Việt với tên gọi **_Nam Hoa kinh_**, là một tác phẩm triết học, văn học Trung Quốc cuối thời Chiến Quốc (476–221 TCN)
**Bến Cát** là một thành phố cũ nằm ở trung tâm tỉnh Bình Dương, Việt Nam. ## Địa lý Thành phố Bến Cát nằm ở trung tâm tỉnh Bình Dương, nằm trong khu vực kinh
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga** ( ) hoặc gọi tắt là **Nga Xô viết** là nước cộng hòa Xô viết lớn nhất và đông dân nhất trong số mười
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
[[Kính hiển vi điện tử truyền qua]] **Kính hiển vi điện tử** là tên gọi chung của nhóm thiết bị quan sát cấu trúc vi mô của vật rắn, hoạt động dựa trên nguyên tắc
**Dầu Tiếng** là một huyện cũ nằm ở phía tây bắc tỉnh Bình Dương, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện Dầu Tiếng nằm ở phía tây bắc tỉnh Bình Dương,
**Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh** tọa lạc tại số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, Quận 1, trong khuôn viên Thảo Cầm Viên Sài Gòn. Đây là nơi bảo
**_Người giàu có nhất thành Babylon_** (tiếng Anh: _The Richest Man in Babylon_) là một tác phẩm của doanh nhân, nhà văn Mỹ George Samuel Clason viết về thể loại làm giàu xuất hiện năm
**Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Thượng Hải** (Tiếng Trung Quốc: **上海市人民政府市长**, Bính âm Hán ngữ: _Shàng Hǎi shì Rénmín Zhèngfǔ Shì zhǎng_, Từ Hán - Việt: _Thượng Hải thị Nhân dân Chính
**Xô viết Đại biểu Công nhân và Binh sĩ Petrograd** (, _Petrogradskiy soviet rabochikh i soldatskikh deputatov_) còn được gọi là **Xô viết Petrograd** (, _Petrogradskiy soviet_, _Petrosovet_) là một cơ quan đại diện quyền
**Ngô Viết Thụ** (17 tháng 9 năm 19269 tháng 3 năm 2000) là một kiến trúc sư người Việt Nam. Ông là tác giả nhiều công trình kiến trúc hiện đại có thể kể đến
|tên viết tắt=|formation=|leader_title=Bề trên Tổng quyền|named_after=Giáo tông Pius X|established=|founder=Marcel Lefebvre|headquarters=Menzingen, Thụy Sĩ|membership=|membership_year=2022|key_people= **Huynh đoàn Linh mục Thánh Pius X** (tiếng Latinh: ; tên viết tắt: **FSSPX** và đôi khi là **SSPX**) là một huynh đoàn
**Đảng Lập hiến Đông Dương** (tiếng Pháp: _Parti Constitutionaliste Indochinois_) là một chính đảng hoạt động ở Nam Kỳ trong thập niên 1910 đến 1930. Đảng này do Bùi Quang Chiêu, một kỹ sư canh
**Eino Leino** (tên khai sinh **Armas Einar Leopold Lönnbohm**; 6 tháng 7 năm 1878 – 10 tháng 1 năm 1926) là nhà thơ, nhà báo Phần Lan, được coi là một trong những tác giả
**Sir Alfred Joseph Hitchcock** (13 tháng 8 năm 1899 – 29 tháng 4 năm 1980) là một đạo diễn, nhà biên kịch và nhà sản xuất phim người Anh. Ông là một trong những nhà
**Ernest Miller Hemingway** (21 tháng 7 năm 1899 – 2 tháng 7 năm 1961) là một tiểu thuyết gia người Mỹ, nhà văn viết truyện ngắn và là một nhà báo. Ông là một phần
|- | colspan="2" style="padding-bottom: 4px; font-size: 90%; text-align: center;" | Tập tin:EFEO Paris 1.jpg
Trụ sở chính của EFEO tại Paris |- | style="background: #C5D2AA;"|   | style="background: #DEE5D1;"|   |- |valign="top" style="text-align: left;"|****||École française
**Bùi** () là một họ người thuộc vùng Văn hóa Đông Á gồm: Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên. Tại Việt Nam họ Bùi phổ biến đứng hàng thứ 9 trong hơn 200 dòng họ,
**Franz Kafka** (3 tháng 7 năm 1883 – 3 tháng 6 năm 1924) là một tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn người Bohemia nói tiếng Đức, được giới phê bình đánh giá
nhỏ|Salazar năm 1950 **António de Oliveira Salazar** GCTE GCSE GColIH GCIC (; (sinh ngày 28 tháng 4 năm 1889 - mất ngày 27 tháng 7 năm 1970) là một chính khách người Bồ Đào Nha,
**Nguyễn Phan Long** (1888 – 1960) là một nhà báo, nhà hoạt động chính trị Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Ông từng được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ tướng đầu
Ngày **1 tháng 1** là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm. ## Lịch sử Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma,
**Sóc Trăng** là một tỉnh cũ ven biển nằm trong vùng hạ lưu Nam sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. ## Nguồn gốc tên gọi Tên gọi Sóc Trăng do từ
**Bảo Đại** (chữ Hán: , 22 tháng 10 năm 1913 – 31 tháng 7 năm 1997), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc (Phước) Vĩnh Thụy** (), là vị hoàng đế thứ 13 và là vị
**Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Danmark_) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các