✨Kinh tế quy mô

Kinh tế quy mô

Tập tin:Economies of scale.svg

Kinh tế quy mô (economies of scale) hay Kinh tế bậc thang chính là chiến lược được hoạch định và sử dụng triệt để trong nhiều ngành kinh doanh; nhất là trong sản xuất. Nội dung chính là nếu sản xuất với quy mô càng lớn thì chi phí và giá thành trên một đơn vị sản phẩm sẽ càng giảm, làm gia tăng lợi nhuận và khả năng cạnh tranh.

Khái niệm này sử dụng trong quản trị chiến lược và tài chính quản trị nhằm đánh giá các tác động của việc tăng năng suất lao động, sử dụng các định phí để ra quyết định chiến lược và điều hành sản xuất.

Hình bên minh họa tính kinh tế quy mô. Trục hoành biểu diễn sản lượng, tức số lượng đơn vị sản phẩm. Trục tung thể hiện chi phí bình quân trên một đơn vị sản phẩm. Đường cong trên sơ đồ là đường chi phí bình quân dài hạn. Khi quy mô sản xuất được mở rộng để sản lượng tăng từ Q lên Q2, chi phí bình quân giảm từ C xuống C1.

Trong kinh tế học vi mô, kinh tế quy mô chính là lợi thế chi phí mà các doanh nghiệp có được nhờ vào quy mô doanh nghiệp, quy mô sản xuất hoặc quy mô hoạt động, với chi phí trên mỗi đơn vị đầu ra thường giảm đi với quy mô ngày càng tăng khi chi phí cố định được chia đều trên mỗi đơn vị đầu ra.

Thông thường, hoạt động sẽ hiệu quả hơn khi quy mô được mở rộng, đồng thời dẫn đến việc giảm các chi phí biến đổi.

Kinh tế quy mô áp dụng được cho một loạt các tình huống tổ chức kinh doanh ở các cấp độ khác nhau, chẳng hạn như một doanh nghiệp, một nhà máy hay chỉ một đơn vị sản xuất. Ví dụ, một cơ sở sản xuất lớn được kì vọng sẽ có chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra thấp hơn so với một cơ sở sản xuất nhỏ hơn, với điều kiện các yếu tố khác là như nhau. Hoặc một công ty với nhiều cơ sở sản xuất nên phải có lợi thế về chi phí so với các đối thủ cạnh tranh có ít cơ sở sản xuất hơn.

Khái niệm kinh tế học này xuất phát từ Adam Smith với ý tưởng mong muốn thu được lợi nhuận sản xuất lớn hơn từ việc phân công lao động. Trong khi đó, tính phi kinh tế quy mô (diseconomies of scale) là khái niệm đối ngược với khái niệm trên.

Kinh tế quy mô thường vẫn còn một số hạn chế; ví dụ như khi vượt qua điểm tối ưu, nơi mà chi phí cho mỗi đơn vị gia tăng bắt đầu tăng lên. Một hạn chế phổ biến đối với chi phí thấp cho mỗi đơn vị trọng lượng hàng hóa đó là cung cấp hàng hóa cho thị trường vượt mức bão hòa, do đó phải vận chuyển hàng hóa tới thị trường khác xa hơn, lúc này khoảng cách vận chuyển là không kinh tế. Các hạn chế bao gồm sử dụng năng lượng không hiệu quả, hoặc là tỷ lệ khuyết tật của sản phẩm cao hơn mức bình thường.

Các hãng sản xuất lớn thường đạt hiệu quả trong dài hạn đối với một loại sản phẩm phân cấp nhất định và họ thường cảm thấy rất tốn kém khi chuyển hướng sang một phân cấp sản phẩm khác. Bởi vậy, họ thường tránh sản xuất các loại sản phẩm phân cấp đặc biệt mặc dù nó mang lại lợi nhuận cao hơn. Thường là các hãng sản xuất nhỏ (hoặc lâu năm) mới duy trì sự tồn tại của mình bằng việc chuyển đổi phân cấp sản phẩm sản xuất.

Tổng quan

Ý nghĩa đơn giản của thuật ngữ kinh tế quy mô là làm việc hiệu quả hơn bằng cách gia tăng quy mô hoặc tốc độ hoạt động. Kinh tế quy mô thường bắt nguồn từ nguồn vốn cố định, cái mà được sẽ giảm xuống trên mỗi đơn vị sản phẩm khi quy mô hoạt động tăng lên. Trong lĩnh vực phân phối bán buôn và bán lẻ, gia tăng tốc độ hoạt động, chẳng hạn như việc thực hiện đơn hàng, giúp làm giảm chi phí cả vốn cố định lẫn vốn lưu động. Kinh tế quy mô có thể được bắt nguồn từ việc mua hàng (mua hàng số lượng lớn thông qua các hợp đồng dài hạn), việc quản lý (nâng cao chất lượng chuyên môn của các quản lý viên), tài chính (vay ngân hàng với lãi suất thấp và sử dụng nhiều loại công cụ tài chính hơn), tiếp thị (dàn trài chi phí quảng cáo trên các phương tiện truyền thông trên mỗi đơn vị đầu ra) và công nghệ (tận dụng lợi thế của hiệu suất thay đổi theo quy mô trong hàm sản xuất). Mỗi một trong các yếu tố trên đều làm giảm chi phí trung bình dài hạn của việc sản xuất bằng cách dịch chuyển đường tổng chi phí ngắn hạn xuống và đồng thời sang phải.

Kinh tế quy mô là một khái niệm thực tiễn có thể giải thích được các hiện tượng trong thực tế, chẳng hạn như xu hướng của thương mại quốc tế hoặc số lượng các hãng sản xuất có trên thị trường. Việc vận dụng khái niệm kinh tế quy mô có thể giải thích cho việc vì sao một số doanh nghiệp lại phát triển lớn mạnh trong một số ngành. Nó còn giúp giải thích cho một số chính sách tự do thương mại, vì một số nền kinh tế quy mô có thể đòi hỏi một thị trường có quy mô lớn hơn mức khả thi của thị trường trong một quốc gia cụ thể. Ví dụ, Liechtenstein sẽ không thể có ngành sản xuất xe hơi nếu ngành này chỉ bán trong thị trường nội địa - nhỏ so với mức cung của ngành. Một hãng sản xuất thì có thể thu được lợi nhuận, nhưng trường hợp có nhiều hãng thì cần phải mở rộng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài bên cạnh việc cung cấp cho thị trường nội địa. Kinh tế quy mô còn đóng một vai trò quan trọng trong trường hợp "độc quyền tự nhiên".

Giáo sư John Seddon của Toyota Production System cho rằng việc cố gắng tạo ra tính kinh tế bằng việc gia tăng quy mô là điều bất khả thi trong lĩnh vực dịch vụ. Thay vào đấy, ông tin rằng tính kinh tế sẽ có được nhờ vào việc cải thiện dịch vụ, bằng cách thỏa mãn từ nhu cầu cơ bản cho đến nhu cầu cuối cùng của khách hàng. Trong việc cố gắng quản lý và giảm các chi phí đơn vị, các hãng lại thường làm tăng tổng chi phí từ việc tạo ra các nhu cầu không hợp lý.

Kinh tế quy mô và hiệu suất thay đổi theo quy mô

Khái niệm kinh tế quy mô có liên quan và đôi khi còn bị nhầm lẫn với một khái niệm kinh tế học khác, gọi là hiệu suất thay đổi theo quy mô. Trong khi khái niệm kinh tế quy mô đề cập đến vấn đề chi phí của hãng thì khái niệm hiệu suất thay đổi theo quy mô lại mô tả mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra trong một hàm sản xuất dài hạn (các đầu vào biến đổi). Một hàm sản xuất có hiệu suất không đổi theo quy mô nếu khi tăng tất cả các đầu vào lên một tỷ lệ nhất định nào đó thì đầu ra cũng gia tăng đúng bằng mức tỷ lệ đấy. Hiệu suất giảm dần theo quy mô xảy ra khi tỷ lệ gia tăng của đầu ra nhỏ hơn tỷ lệ tăng lên của đầu vào, và hiệu suất tăng dần theo quy mô xảy ra trong trường họp ngược lại. Nếu một hàm toán học được sử dụng để biểu diễn hàm sản xuất này, và nếu hàm sản xuất đó là hàm đồng nhất, thì hiệu suất thay đổi theo quy mô được biểu diễn bởi mức độ đồng nhất của hàm toán học nói trên. Hàm sản xuất đồng nhất có hiệu suất không đổi theo quy mô là hàm đồng nhất bậc một, hiệu suất tăng dần theo quy mô được biểu diễn bởi hàm đồng nhất bậc lớn hơn một và hiệu suất giảm dần theo quy mô là hàm đồng nhất bậc bé hơn một.

Nếu một hãng là đối thủ cạnh tranh hoàn hảo trong mọi thị trường các yếu tố đầu vào, và vì thế chi phí trên mỗi đơn vị đầu vào không bị ảnh hưởng bởi số lượng mà hãng mua, thì ở một mức độ nhất định nào đó của sản lượng đầu ra, hãng đạt được tính kinh tế quy mô khi và chỉ khi hãng có hiệu suất tăng dần theo quy mô, hãng phải chịu tính phi kinh tế quy mô khi và chỉ khi hãng có hiệu suất giảm dần theo quy mô và ở trạng thái trung lập (không có tính kinh tế lẫn phi kinh tế quy mô) khi hãng có hiệu suất không đổi theo quy mô. Trong trường hợp này, với thị trường cạnh tranh hoàn hảo sản phẩm đầu ra, điểm cân bằng trong dài hạn sẽ liên quan đến tất cả các doanh nghiệp hoạt động tại điểm tối thiểu của đường chi phí trung bình dài hạn của từng hãng (tức là tại đường ranh giới giữa tính kinh tế và phi kinh tế quy mô).

Tuy nhiên, nếu hãng không phải là một đối thủ cạnh tranh hoàn hảo trong các thị trường yếu tố đầu vào thì những kết luận ở trên sẽ không còn đúng. Ví dụ, nếu có hiệu suất tăng dần theo quy mô ở một vài mức sản lượng đầu ra nào đó, nhưng ở một số thị trường đầu vào hãng lớn đến nỗi khi tăng lượng mua của một yếu tố đầu vào sẽ dẫn đến sự gia tăng của chi phí trên mỗi đơn vị, thì lúc đấy hãng sẽ phải đổi mặt với tính phi kinh tế quy mô ở các mức sản lượng đầu ra nói trên. Ngược lại, nếu hãng có thể được giảm giá số lượng lớn đối với một yếu tố đầu vào, thì hãng có thể đạt được tính kinh tế quy mô tại một vài mức sản lượng đầu ra nào đó, mặc dù hãng có hiệu suất giảm dần theo quy mô ở các mức sản lượng nói trên.

Các tài liệu cho rằng do bản chất cạnh tranh của đấu giá ngược, và để bù đắp cho mức giá cũng như lợi nhuận thấp, người bán thường hướng đến việc cung cấp hàng với số lượng lớn để duy trì hoặc gia tăng tổng doanh thu. Trong khi đó, người mua lại được hưởng lợi từ các chi phi giao dịch thấp và tính kinh tế quy mô từ việc giao dịch số lượng lớn. Bởi vậy, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng số lượng mua bán hàng hóa phải đủ lớn để tạo ra đủ lợi nhuận để thu hút các nhà cung cấp, cũng như giúp cho người mua trang trải một phần các chi phí bổ sung.

Tuy vậy, một điều đáng ngạc nhiên là nghiên cứu của Shalev và Asbjornsen, dựa trên 139 cuộc đấu giá ngược được tiến hành ở khu vực công, đã chỉ ra rằng số lượng đấu giá lớn (tính kinh tế quy mô) không mang lại sự thành công hơn cho cuộc đấu giá. Họ nhận ra rằng khối lượng đấu giá không có liên quan gì đến cuộc cạnh tranh, hay là số lượng người đấu giá. Tuy nhiên, họ ghi chú lại rằng dữ liệu của họ bao gồm một lượng lớn các loại sản phẩm khác nhau, và mức độ cạnh tranh của mỗi cuộc đấu giá cũng khác nhau. Họ đề nghị rằng những nghiên cứu tiếp theo về vấn đề này nên được tiến hành để xác định xem liệu những kết quả trên có còn như cũ khi mua bán cùng một loại hàng hóa giống nhau với cả số lượng ít lẫn nhiều. Giữ các yếu tố cạnh tranh không đổi, việc tăng khối lượng đấu giá có thể tăng sức cạnh tranh.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Tập tin:Economies of scale.svg **Kinh tế quy mô** (economies of scale) hay **Kinh tế bậc thang** chính là chiến lược được hoạch định và sử dụng triệt để trong nhiều ngành kinh doanh; nhất là
**Kinh tế** (Tiếng Anh: _economy_) là một lĩnh vực sản xuất, phân phối và thương mại, cũng như tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ. Tổng thể, nó được định nghĩa là một lĩnh vực
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
**Trường Đại học Kinh tế** (tiếng Anh: _University of Economics, Hue University_) là trường đại học đào tạo khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh tại miền Trung Việt Nam, trực thuộc Đại
**Tin học kinh tế** là một ngành khoa học nghiên cứu, thiết kế, phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin và hệ thống truyền thông trong các doanh nghiệp. Với danh nghĩa một
Kinh Tế Quốc Tế Chương 1 Năng suất lao động và lợi thế so sánh Chương 2 Mô hình nhân tố chuyên biệt và phân phối thu nhập Chương 3 Nguồn lực và thương mại
## Kinh tế học vi mô ;Kinh tế học vi mô là gì? :Kinh tế học :Kinh tế học vi mô :Nguyên lý cung - cầu ;Hành vi của người tiêu dùng :Tiêu dùng :Người
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế học** (Tiếng Anh: _economics_) là môn khoa học xã hội nghiên cứu sự sản xuất, phân phối và tiêu dùng các loại hàng hóa và dịch vụ. Kinh tế học cũng nghiên cứu
**Nền kinh tế Tây Ban Nha** là nền kinh tế lớn thứ mười bốn thế giới tính theo GDP danh nghĩa cũng như là một trong những nền kinh tế lớn nhất theo sức mua
**Kinh tế Hoa Kỳ** (Mỹ) là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp với kỹ nghệ, mức độ công nghiệp hóa và trình độ phát triển rất cao. Đây không chỉ là
nhỏ|Cổng trường Đại học kinh tế quốc dân (phố Vọng) **Đại học Kinh tế Quốc dân** (tiếng Anh: _National Economics University_, **NEU**) là một đại học định hướng nghiên cứu đầu ngành trong khối các
**Kinh tế Israel** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với mức độ công nghiệp hóa, kỹ nghệ cùng hàm lượng tri thức cao, đây là quốc gia có
thumb|Bản đồ xuất khẩu của Qatar thumb|Bản đồ biểu diễn tài nguyên [[khoáng sản của Qatar.]] **Nền kinh tế Qatar** là một trong những nền kinh tế giàu nhất trên thế giới về GDP bình
**Kinh tế học quốc tế** là một bộ môn khoa học, một chuyên ngành của kinh tế học nghiên cứu sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các quốc gia. Kinh tế học
**Kinh tế Malaysia** là một nền kinh tế hỗn hợp mới nổi và đang phát triển, có thu nhập trung bình khá, công nghiệp hóa cao. Nền kinh tế này đứng thứ 36 trên thế
**Kinh tế học hành vi** và lĩnh vực liên quan, **tài chính hành vi**, nghiên cứu các ảnh hưởng của xã hội, nhận thức, và các yếu tố cảm xúc trên các quyết định kinh
**Kinh tế Mexico** là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, đứng thứ 15 trên thế giới. Kể từ cuộc khủng hoảng 1994, chính phủ México đã có những cải cách đáng
Đại dịch COVID-19 tại Việt Nam đã làm ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Giống như đa số nền kinh tế trên thế giới, ở Việt Nam, các ngành công nghiệp tư nhân
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Nền kinh tế Ý** là nền kinh tế quốc gia lớn thứ ba của Liên minh châu Âu, lớn thứ tám tính theo GDP danh nghĩa của thế giới và lớn thứ 12 theo GDP
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
Lý thuyết **nền kinh tế Robinson Crusoe** là một lý thuyết nền tảng được dùng để nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong kinh tế. Lý thuyết trên đưa ra giả thuyết về một
nhỏ| Sơ đồ [[Mô hình IS-LM|mô hình IS / LM]] Trong kinh tế học, **mô hình** là một cấu trúc lý thuyết đại diện cho các quá trình kinh tế bằng một tập hợp các
**Kinh tế Ấn Độ** là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới đang phát triển, lớn thứ ba thế giới nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), thứ 7 trên thế giới
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Lý thuyết chu kỳ kinh tế thực (lý thuyết RBC)** là một loại mô hình kinh tế vĩ mô tân cổ điển, trong đó các biến động của chu kỳ kinh doanh được tính bằng
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Dự báo kinh tế** là quá trình đưa ra dự đoán về nền kinh tế. Dự báo có thể được thực hiện ở mức tổng hợp cao, ví dụ như GDP, lạm phát, thất nghiệp
**Kinh tế Pháp** là nền kinh tế phát triển cao và định hướng thị trường tự do. Pháp là quốc gia có nền kinh tế lớn thứ 7 trên thế giới vào năm 2020 tính
**Suy thoái kinh tế** (tiếng Anh: _recession/economic downturn_) được định nghĩa trong Kinh tế học vĩ mô là sự suy giảm của Tổng sản phẩm quốc nội thực trong thời gian hai hoặc hơn hai
**Lịch sử kinh tế Nhật Bản** được quan tâm nghiên cứu chính là vì sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của nước này và bởi vì Nhật Bản là nền kinh tế quốc gia
**Hiệu suất thay đổi theo quy mô** (tiếng Anh: returns to scale) và **lợi thế kinh tế nhờ quy mô** (economies of scale) là hai thuật ngữ kinh tế có tuy liên quan đến nhau
**Kinh tế Thái Lan** là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới phụ thuộc lớn vào du lịch và xuất khẩu với kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 60% GDP. Đây là nền
**Trường phái kinh tế học Áo** là một trường phái tư tưởng nghiên cứu các hiện tượng kinh tế học dựa trên giải thích và phân tích những hành động có mục đích của các
Nhiều định nghĩa khác nhau về kinh tế học đã được đưa ra, bao gồm cả "những gì các nhà kinh tế học làm". Thuật ngữ trước đây của 'kinh tế học' là _kinh tế
nhỏ|Lương trung bình hàng tháng ở các tỉnh Ukraine tháng 7/ 2019 **Dữ liệu** **kinh tế** hoặc **thống kê kinh tế** là dữ liệu (các biện pháp định lượng) mô tả một nền kinh tế
**Chính sách kinh tế** đề cập đến các hành động của chính phủ áp dụng vào lĩnh vực kinh tế. Chính sách kinh tế thường bị chi phối từ các chính đảng, nhóm lợi ích
**Kinh tế Togo** đề cập đến những hoạt động kinh tế của nước Cộng hòa Togo. ## Nông nghiệp Nông nghiệp tự cung tự cấp là hoạt động kinh tế chính ở Togo; đa số
**Hiệu quả kinh tế** là, gần như nói, một tình huống trong đó không có gì có thể được cải thiện mà không có cái gì khác bị tổn thương. Tùy thuộc vào ngữ cảnh,
**Kinh tế học nông nghiệp** là một lĩnh vực kinh tế ứng dụng liên quan đến việc áp dụng lý thuyết kinh tế trong việc tối ưu hóa sản xuất và phân phối thực phẩm
**Kinh tế Philippines** là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới, theo các số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 2020, quy mô nền kinh tế của quốc
**Nền kinh tế Campuchia**, dù gần đây có những bước tiến, nhưng vẫn tiếp tục gánh chịu những di sản của mấy thập kỷ chiến tranh và nội chiến. Thu nhập đầu người, dù đang
**Kinh tế học Keynes** là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm _Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ_ (thường được gọi tắt là _Lý thuyết
**Kinh tế học tiền tệ** là một nhánh của kinh tế học, nghiên cứu các lý thuyết cạnh tranh khác nhau của tiền tệ: nó cung cấp một khuôn khổ để phân tích tiền và
nhỏ|phải|Tòa nhà Trung tâm thương mại quốc tế [[Skytower ở Thủ đô Chisinau (Ki-si-nhốp)]] nhỏ|phải|Một nhà băng ở Floresti **Nền kinh tế của Moldova** hiện nay là một nền kinh tế có thu nhập trung
**Nền kinh tế của Ethiopia** là một nền kinh tế hỗn hợp và chuyển tiếp với một khu vực công lớn. Chính phủ Ethiopia đang trong quá trình tư nhân hoá nhiều doanh nghiệp nhà
**Kinh tế học vĩ mô**, **kinh tế vĩ mô**, **kinh tế tầm lớn** hay đôi khi được gọi tắt là **vĩ mô** (Tiếng Anh: _macroeconomics_), là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên
**Kinh tế Nga** là một nền kinh tế thị trường đang phát triển, lớn thứ 11 theo GDP danh nghĩa hoặc đứng thứ 6 toàn cầu theo sức mua tương đương năm 2020. Cũng trong
**Kinh tế Azerbaijan** là nền kinh tế một nền kinh tế hội nhập và dựa nhiều vào sản xuất và xuất khẩu dầu mỏ. Nhờ giá dầu lên cao khiến thu nhập từ xuất khẩu