✨Kế hoạch kinh tế

Kế hoạch kinh tế

nhỏ|phải|Một bản Kế hoạch kinh tế-xã hội (2007-2011) của Chính quyền Thái Lan Kế hoạch kinh tế (Economic planning) hay còn gọi là việc lập kế hoạch kinh tế, ở góc độ quản lý nhà nước thì đây là hoạt động xây dựng kế hoạch kinh tế - xã hội là một cơ chế phân bổ tài nguyên dựa trên quy trình được tính toán bố trí nguồn lực để giải quyết vấn đề một cách tối đa hóa, cơ chế này được ràng buộc bằng quy trình "đến hẹn lại lên" để có được giải pháp của nó. Lập kế hoạch là một cơ chế phân bổ nguồn lực giữa và trong các tổ chức trái ngược với cơ chế thị trường. Đây là một cơ chế phân bổ theo cơ chế vận hành của chủ nghĩa xã hội, kế hoạch kinh tế thay thế thị trường yếu tố bằng quy trình phân bổ trực tiếp các nguồn lực trong một nhóm liên kết của các tổ chức sở hữu xã hội cùng nhau tạo thành bộ máy sản xuất của nền kinh tế.

Có nhiều hình thức lập kế hoạch kinh tế khác nhau tùy theo thủ tục và cách tiếp cận cụ thể của chúng. Mức độ tập trung hoặc phân cấp trong việc ra quyết định phụ thuộc vào loại cơ chế lập kế hoạch cụ thể được sử dụng. Ngoài ra, người ta có thể phân biệt giữa kế hoạch tập trung và kế hoạch phi tập trung. Một nền kinh tế chủ yếu dựa vào kế hoạch hóa được gọi là nền kinh tế kế hoạch. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, việc phân bổ nguồn lực được xác định bởi một kế hoạch sản xuất toàn diện trong đó xác định rõ các yêu cầu đầu ra. Việc lập kế hoạch cũng có thể dưới hình thức lập kế hoạch dự kiến trong nền kinh tế dựa trên thị trường, trong đó nhà nước sử dụng các công cụ thị trường để thúc đẩy các công ty độc lập đạt được các mục tiêu phát triển.

Đại cương

Có thể phân biệt giữa kế hoạch hóa các nguồn lực và kế hoạch tài chính (được chính phủ và các công ty tư nhân trong cơ chế chủ nghĩa tư bản thực hiện). Lập kế hoạch nguồn lực liên quan đến việc lập kế hoạch và phối hợp kinh tế được thực hiện theo các đơn vị vật chất tách rời trong khi lập kế hoạch tài chính liên quan đến các kế hoạch được xây dựng theo đơn vị tài chính (nguồn tiền). Các hình thức kế hoạch hóa kinh tế khác nhau đã được thể hiện trong các mô hình khác nhau của chủ nghĩa xã hội. Những phạm vi này từ các hệ thống lập kế hoạch phi tập trung dựa trên việc ra quyết định tập thể và thông tin phân tách đến các hệ thống lập kế hoạch tập trung được thực hiện bởi các chuyên gia kỹ thuật sử dụng thông tin tổng hợp để xây dựng kế hoạch sản xuất. Trong một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển đầy đủ, các kỹ sư và chuyên gia kỹ thuật, được giám sát hoặc bổ nhiệm một cách dân chủ, sẽ điều phối nền kinh tế về mặt đơn vị vật chất mà không cần hoặc sử dụng tính toán dựa trên cơ sở tài chính. Nền kinh tế của Liên Xô chưa bao giờ đạt đến giai đoạn phát triển này nên đã lập kế hoạch kinh tế về mặt tài chính trong suốt thời gian tồn tại của mình.

Việc lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong nền kinh tế thị trường gắn bó chặt với các nguồn lực xã hội và nguồn lực tài chính để có thể tối đa hóa hiệu quả sử dụng nguồn lực trong quá trình thực hiện. Công tác lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội gắn với nguồn lực tài chính được phân tích trên 3 khía cạnh: quy trình lập, nội dung các bản kế hoạch và phương pháp lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phương pháp lập kế hoạch phát triển được đánh giá dựa trên 3 khía cạnh: phương pháp xây dựng nội dung thuyết minh của bản kế hoạch, phương pháp tính toán các chỉ tiêu và phương pháp dự báo nhu cầu nguồn lực và dự toán ngân sách trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phương pháp xây dựng nội dung thuyết minh của bản kế hoạch còn hạn chế do chưa phát triển đầy đủ hệ thống thông tin cần thiết để thông kê phân tích, đánh giá thực trạng phát triển kinh tế xã hội, chưa có sự so sánh chéo hay so sánh tương quan giữa các chỉ tiêu (thông qua hệ số co giãn).

Các công cụ phổ biến hỗ trợ công tác phân tích, đánh giá thực trạng như phân tích môi trường bên trong-bên ngoài, phân tích cây vấn đề, cây mục tiêu chưa được sử dụng phổ biến. Điểm hạn chế trong phương pháp đánh giá thực trạng là thiếu đánh giá về hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính thông qua đánh giá hiệu quả các dự án đầu tư công, đánh giá hiệu quả, hiệu lực của các chính sách, chương trình hành động đang triển khai theo khung logic, phân tích lợi ích–chi phí hay qua ý kiến phản hồi đánh giá lợi/hại (lợi bât cập hại) của các bên liên quan. Việc xác định mục tiêu kế hoạch chưa mang tính đột phá mà vẫn còn dàn trải trên tất cả các ngành và có sự lặp đi lặp lại qua nhiều giai đoạn, chưa có điểm nhấn, chưa hình thành những mối liên kết rõ ràng với sự sẵn có về nguồn lực. Các giải pháp kế hoạch mang tính chất mơ hồ, chưa rõ nét, khó hiện thực hóa. Các giải pháp chưa gắn với nguồn kinh phí thực hiện nên chưa tạo ra sự gắn kết giữa kế hoạch phát triển với nguồn lực tài chính.

Phương pháp tính toán các chỉ tiêu còn chưa khoa học, các chỉ tiêu kế hoạch là các chỉ tiêu định lượng, cần áp dụng các phương pháp dự báo khoa học để tính toán nhưng các chỉ tiêu trong bản kế hoạch đều được đưa ra dựa trên kinh nghiệm, so sánh năm trước - năm sau, các chỉ tiêu đề ra chưa khoa học, thiếu chính xác, mâu thuẫn giữa các chỉ tiêu kế hoạch. Phương pháp dự báo nhu cầu nguồn lực và dự toán ngân sách trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hạn chế do bị hạn chế trong phương pháp xác định các chỉ tiêu kế hoạch nên việc dự báo nhu cầu nguồn lực tài chính. Chưa có các hàm thể hiện mối tương quan giữa các mục tiêu phát triển với nguồn lực tài chính nên có tình trạng cân đối thiếu nguồn lực, chưa huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn lực xã hội để thực hiện các mục tiêu kế hoạch. Từ đó dẫn tới một thực tế là danh mục các dự án kèm theo các bản kế hoạch phát triển kinh tế xã hội mới chỉ dựa trên nguồn lực sẵn có, một vài nhu cầu cấp thiết mà chưa giải quyết vấn đề liệu các dự án có khả thi, hiệu quả, có ý nghĩa, dự án có được thẩm định về lợi ích–chi phí, lợi ích kinh tế-xã hội. Danh mục dự án cũng rơi vào tình trạng phải bổ sung, thay đổi nhiều lần do chưa dự báo hết các nguồn lực cũng như chưa bao phủ được hết các nhu cầu cấp thiết của địa phương trong kỳ kế hoạch.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Một bản Kế hoạch kinh tế-xã hội (2007-2011) của Chính quyền Thái Lan **Kế hoạch kinh tế** (_Economic planning_) hay còn gọi là việc **lập kế hoạch kinh tế**, ở góc độ quản lý nhà
nhỏ|Áp phích tuyên truyền kinh tế Xô Viết **Kế hoạch hóa kinh tế kiểu Xô Viết **) là mô hình cụ thể của kế hoạch hóa tập trung được sử dụng bởi các nhà nước
**Kinh tế kế hoạch** (còn được gọi là nền kinh tế kế hoạch tập trung hoặc nền kinh tế chỉ huy) là một nền kinh tế-xã hội trong đó Chính phủ và Nhà nước kiểm
**Kế hoạch kinh doanh** là một kế hoạch mô tả quá trình kinh doanh của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian. Nó đánh giá việc kinh doanh đã có kết quả như thế nào
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Kinh tế Bắc Triều Tiên** phản ánh những quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế và tình hình kinh tế, đời sống tại CHDCND Triều Tiên. Nhìn chung, nền kinh tế CHDCND Triều Tiên
Tiền giấy mệnh giá 500 [[đồng Việt Nam Cộng hòa|đồng phát hành năm 1966]] **Kinh tế Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) là một nền kinh tế theo hướng thị trường, đang phát triển, và mở
**Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Liên Xô**, còn được gọi là **Gosplan** (, ), là cơ quan chịu trách nhiệm về việc lập kế hoạch kinh tế trung ương trong Liên Xô. Được thành
**Nền kinh tế Cộng hòa Dân chủ Đức** (1945–1990; tính cả thời kỳ quân đội Liên Xô tiếp quản 1945–1949) là một nền kinh tế kế hoạch tương tự như hệ thống kinh tế ở
**Hội đồng Tương trợ Kinh tế** (tiếng Nga: Совет экономической взаимопомощи _Sovyet Ekonomičeskoy Vzaimopomošči_, **SEV** (СЭВ, SEW); tiếng Anh: Council of Mutual Economic Assistance, **COMECON** hoặc CMEA), còn gọi là tổ chức hợp tác kinh
**Kinh tế Malaysia** là một nền kinh tế hỗn hợp mới nổi và đang phát triển, có thu nhập trung bình khá, công nghiệp hóa cao. Nền kinh tế này đứng thứ 36 trên thế
**Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 – 1980)** được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam IV đề ra năm 1976 sau khi những kế hoạch nhà nước 5 năm đã ngưng trệ từ
**Kinh tế Liên Xô** dựa trên quyền sở hữu nhà nước đối với các phương tiện sản xuất, canh tác tập thể và sản xuất công nghiệp. Kế hoạch kinh tế tập trung cao của
thumb|220x124px | right | Bốn pha của chu kỳ kinh doanh **Chu kỳ kinh tế**, còn gọi là **chu kỳ kinh doanh** (Tiếng Anh: _Business cycle_), là sự biến động của GDP thực tế theo
**Hệ thống Kinh tế So sánh** là một nhánh phụ của kinh tế học liên quan đến việc nghiên cứu so sánh các hệ thống tổ chức kinh tế khác nhau, chẳng hạn như chủ
thumb|Bản đồ của Vương quốc Anh về các đề xuất của Pháp, được tạo ra vào tháng 4 năm 1946. [[Vùng Ruhr sẽ được mở rộng đến biên giới Hà Lan bằng cách hợp nhất
**Lập kế hoạch kinh doanh tích hợp** (IBP) là một quá trình chuyển các kết quả kinh doanh mong muốn thành các yêu cầu tài nguyên và hoạt động, với mục tiêu bao quát là
phải|nhỏ|200x200px| Các lớp học về kinh tế sử dụng rộng rãi các biểu đồ cung và cầu như biểu đồ này để dạy về thị trường. Trong đồ thị này, S và D là cung
nhỏ|phải|Một làng dân miền Bắc đi kinh tế mới sau 29 năm ở Tây Nguyên **Xây dựng các vùng kinh tế mới** là một chính sách của Chính phủ Việt Nam nhằm tổ chức, phân
**Hội đồng Kinh tế Xã hội** là cơ quan cố vấn cho cho Chính phủ và Quốc hội về những vấn đề kinh tế và xã hội, đồng thời tham gia ý kiến về các
phải|nhỏ|Một hình ảnh trên báo có nội dung tuyên truyền cho cải cách kinh tế năm 1965. Dòng chữ dưới cùng ghi "Chúng ta đang tạo nên chiếc chìa khóa đi tới hạnh phúc." **Cải
**Kinh tế Đài Loan** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với kỹ nghệ cùng mức độ công nghiệp hóa cao. Năm 2019, GDP danh nghĩa của hòn đảo
**Kinh tế hàng hóa** là nền kinh tế có sự phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự cung
## Kinh tế học vĩ mô ;Kinh tế học vĩ mô là gì? :Kinh tế học vĩ mô :Tổng sản phẩm nội địa :Số nhân (kinh tế học) :Thất nghiệp :Lạm phát ;Nền kinh tế
(_ 'METI' _) là một bộ trong Nội các Nhật Bản của Chính phủ Nhật Bản. Nó được thành lập bởi Cải cách Chính phủ Trung ương 2001 khi Bộ Thương mại và Công nghiệp
**Trường Cao đẳng Kinh tế - Kế hoạch Đà Nẵng** là một trường cao đẳng tại Đà Nẵng (2001), tiền thân là Trường Nghiệp vụ Kế hoạch II thành lập ngày 03/07/1976. ## Lịch sử
nhỏ|409x409px| Lập kế hoạch tài nguyên sản xuất hoặc lập kế hoạch tài nguyên quản lý (hoặc MRP2) - Khoảng năm 1980, những thay đổi quá mức trong dự báo bán hàng, kéo theo sự
Dù đang bắt đầu một doanh nghiệp mới hay phát triển một doanh nghiệp đã thành lập, bạn sẽ cần một kế hoạch kinh doanh vững chắc để đưa bạn đến nơi mình muốn. Được
**Trường Đại học Kinh tế** (tiếng Anh: _University of Economics, Hue University_) là trường đại học đào tạo khối ngành kinh tế và quản trị kinh doanh tại miền Trung Việt Nam, trực thuộc Đại
Karl Marx, người sáng lập ra học thuyết kinh tế chính trị Marx - Lenin **Kinh tế chính trị Marx-Lenin** hay **kinh tế chính trị học Marx-Lenin** là một lý thuyết về kinh tế chính
phải|Bản đồ của châu Âu và vùng Cận Đông thời [[Chiến tranh Lạnh thể hiện các nước đã nhận viện trợ theo Kế hoạch Marshall. Các cột màu xanh thể hiện mối tương quan tổng
**Kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986** nằm trong bối cảnh thời bao cấp, đây là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
Đại dịch COVID-19 tại Việt Nam đã làm ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam. Giống như đa số nền kinh tế trên thế giới, ở Việt Nam, các ngành công nghiệp tư nhân
thumb|Bản đồ xuất khẩu của Qatar thumb|Bản đồ biểu diễn tài nguyên [[khoáng sản của Qatar.]] **Nền kinh tế Qatar** là một trong những nền kinh tế giàu nhất trên thế giới về GDP bình
nhỏ|phải|Một bản kế hoạch cá nhân trong ngày đơn giản với một danh mục các công việc cần làm gồm: thức dậy, làm một tách cà phê, và nghỉ ngơi **Kế hoạch** là một tập
**Hành lang Kinh tế Trung Quốc–Pakistan** (tiếng Anh: _China–Pakistan Economic Corridor_, CPEC) là một loạt các dự án cơ sở hạ tầng đang được xây dựng trên khắp Pakistan kể từ năm 2013, dưới sự
**Kinh tế Hàn Quốc** là một nền kinh tế hỗn hợp phát triển cao được đặc trưng bởi những tập đoàn sở hữu bởi các gia đình giàu có được gọi là Chaebol. Hàn Quốc
thumb|Ngoại trưởng Liên Xô [[Vyacheslav Molotov]] **Kế hoạch Molotov** là hệ thống được Liên Xô tạo ra vào năm 1947 nhằm cung cấp viện trợ giúp tái thiết các quốc gia ở Đông Âu có
Đại hội VIII đề ra Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1996 – 2000) xuất phát từ đặc điểm tình hình, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu thời kì quá độ lên
**Các nguyên lý của [[kinh tế học**]] **Các nguyên lý của kinh tế học** là những quy luật tổng quan về kinh tế học và là những dự báo có thể xảy ra trong nền
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
Đại hội VII đề ra "Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1991 – 1995)" xuất phát từ đặc điểm tình hình trong và ngoài nước, căn cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu thời
**Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981 – 1985)** được Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam V đề ra năm 1981 trong hoàn cảnh kinh tế đất nước sau 5 năm Kháng chiến chống
nhỏ|Cổng trường Đại học kinh tế quốc dân (phố Vọng) **Đại học Kinh tế Quốc dân** (tiếng Anh: _National Economics University_, **NEU**) là một đại học định hướng nghiên cứu đầu ngành trong khối các
**Kinh tế Ấn Độ** là một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới đang phát triển, lớn thứ ba thế giới nếu tính theo sức mua tương đương (PPP), thứ 7 trên thế giới
**Kế hoạch 5 năm tại Việt Nam** là một loạt các kế hoạch phát triển kinh tế quốc gia Việt Nam dựa trên mô hình kế hoạch 5 năm của các nước xã hội chủ
**Tình báo kinh tế** (hay còn gọi là **Gián điệp kinh tế**) là toàn bộ những hoạt động tìm kiếm, xử lý, truyền phát và bảo vệ thông tin có ích cho các thành phần
Kế hoạch Barbarossa là văn kiện quân sự-chính trị có tầm quan trọng đặc biệt do Adolf Hitler và các cộng sự của ông trong Đế chế Thứ Ba vạch ra. Nằm trong chiến lược
**Kinh tế Israel** là một nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phát triển với mức độ công nghiệp hóa, kỹ nghệ cùng hàm lượng tri thức cao, đây là quốc gia có