✨Karafuto

Karafuto

, thường gọi là Nam Sakhalin, là một đơn vị hành chính của Đế quốc Nhật Bản trên phần lãnh thổ của đế quốc trên đảo Sakhalin từ năm 1905 đến năm 1945. Với Hòa ước Portsmouth, phần phía nam đảo Sakhalin dưới 50°B trở thành thuộc địa của Nhật Bản vào năm 1905. Năm 1907, tỉnh Karafuto được thành lập, thủ phủ nằm ở Ōtomari (大泊, nay là Korsakov) năm 1905 và sau đó là Toyohara (豊原, nay là Yuzhno-Sakhalinsk) vào năm 1907. Năm 1945, với việc Nhật Bản đầu hàng trong Thế chiến II, chính quyền Nhật Bản tại Karafuto không còn hoạt động, và từ năm 1951, phần phía nam của Sakhalin trở thành một phần của Liên Xô (sau năm 1991 là Liên bang Nga).

Tên gọi

Tên Tiếng Nhật xuất phát từ tiếng Ainu Kamuy Kar Put Ya Mosir (), có nghĩa là "hòn đảo một vị thần được tạo ra ở cửa sông (của sông Amur)". Nó trước đây được gội là , nghĩa là Bắc Ezo (Ezo là tên trước đây của Hokkaidō). Khi Nhật Bản quản lý lãnh thổ, Karafuto thường chỉ có nghĩa là Nam Sakhalin. Để thuận tiện, phần phía bắc của đảo đôi khi được gọi là .

Trong Tiếng Nga, tòn bộ hòn đảo có tên là Sakhalin (Сахалин) hay Saghalien. Ttên này có nguồn gốc từ tiếng Mãn Sahaliyan Ula Angga Hada, nghĩa là "đỉnh của cửa sông Amur". Phần phía nam được gọi đơn giản là Yuzhny Sakhalin (Южный Сахалин, "Nam Sakhalin").

Trong Tiếng Triều Tiên, tên gọi là Sahallin (사할린) hay Hwataedo (화태도, 樺太島), tên sau được dùng trong thời kỳ Triều Tiên thuộc Nhật.

Lịch sử

Người Nhật đã định cư trên đảo Sakhalin ít nhất là từ thời kỳ Edo. Ōtomari được thành lập vào năm 1679, và người vẽ bản đồ của phiên Matsumae đã thể hiện hòn đảo trên bản đồ, đặt tên cho nó là "Kita-Ezo". Người vẽ bản đồ và thám hiểm người Nhật Mamiya Rinzō đã xác nhận việc Sakhalin là một hòn đảo trong chuyến đi của ông về nơi mà nay được đặt tên là eo biển Mamiya (eo biển Tartary) năm 1809. Nhật Bản đơn phương tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ hòn đảo vào năm 1845, song đã bị đế quốc Nga phớt lờ.

Năm 1855, hiệp ước Shimoda thừa nhận rằng cả Nga và Nhật Bản đều có quyền chiếm giữ Sakhalin, không cần vạch ra một biên giới xác định. Khi hòn đảo được định cư vào thập niên 1860 và 1870, sự nhập nhằng này đã làm gia tăng xích mích giữa những người định cư của hai nước. Những nỗ lực của Mạc phủ Tokugawa nhằm mua lại toàn bộ hòn đảo từ đế quốc Nga đã thất bại, và chính quyền Minh Trị sau đó đã không thể thương lượng về việc phân chia đảo thành các vùng lãnh thổ riêng biệt.

Trong Hiệp ước Sankt Peterburg (1875), Nhật Bản đã đồng ý từ bỏ các yêu sách của mình ở Sakhalin để đổi lấy chủ quyền không tranh chấp đối với quần đảo Kuril.

Sakhalin bị Nhật Bản xâm lược trong giai đoạn cuối của chiến tranh Nga-Nhật vào năm 1904–1905, nhưng với hiệp ước Portsmouth năm 1905, Nhật Bản đã được phép giữ lại phần phía nam của đảo bên dưới 50° vĩ Bắc. Nga chiếm giữ phần phía bắc, mặc dù Nhật Bản được trao quyền thương mại thuận lợi, bao gồm cả quyền đánh cá và khai thác khoáng sản ở phía bắc.

Năm 1907, tỉnh Karafuto được chính thức thành lập, với thủ phủ đặt tại Ōtomari. Năm 1908, thủ phủ chuyển về Toyohara.

Sau Sự kiện Nikolaevsk năm 1920, Nhật Bản đã nắm giữ phần phía bắc của Sakhalin và chiếm đóng cho đến khi chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô vào năm 1925; tuy nhiên, Nhật Bản tiếp tục được nhượng quyền khai thác dầu khí và than đá ở miền bắc Sakhalin cho đến năm 1944.

Năm 1920, Karafuto chính thức trở thành "ngoại địa" của Nhật Bản, trách nhiệm quản lý và phát triển của tỉnh nằm dưới sự bảo trợ của Thác vụ tỉnh, phụ trách các vấn đề thuộc địa. Năm 1942, địa vị của Karafuto được nâng lên thành "nội địa" (内地 naichi), khiến nó trở thành một lãnh thổ đầy đủ của Đế quốc Nhật Bản. phải|Văn phòng tỉnh Karafuto.

Liên Xô xâm lược

Tháng 8 năm 1945, sau khi từ bỏ Hiệp ước trung lập Xô-Nhật, Liên Xô xâm lược Karafuto. Hồng quân Liên Xô tấn công miền nam Karafuto bắt đầu từ ngày 11 tháng 8 năm 1945, một vài ngày trước khi Nhật Bản đầu hàng. Quân đoàn súng trường Xô viết số 56, thuộc quân 16, bao gồm Sư đoàn súng trường số 79, Lữ đoàn súng trường số 2, Lữ đoàn súng trường số 5 và Lữ đoàn thiết giáp số 214, đã tấn công Sư đoàn bộ binh số 88 của Nhật Bản. Mặc dù Hồng quân Liên Xô vượt trội so với quân Nhật theo tỉ lệ 3:1, họ đã chỉ có thể tiến chậm do sự kháng cự mạnh mẽ của người Nhật. Đến khi lữ đoàn súng trước số 113 và tiểu đoàn súng trường thủy quân lục chiến độc lập số 365 từ Sovetskaya Gavan đổ bộ lên Tōro, một làng ven biển phía tây Karafuto vào ngày 16 tháng 8 thì quân Xô Viết mới bẻ gãy được tuyến phòng thủ của người Nhật. Sự kháng cự của Nhật Bản yếu đi sau cuộc đổ bộ này. Chiến đấu trên thực địa tiếp tục diễn ra cho đến ngày 21 tháng 8. Từ ngày 22 đến 23 tháng 8, hầu hết các đơn vị quân đội Nhật Bản còn lại đã chấp nhận ngừng bắn. Liên Xô hoàn thành chinh phục Karafuto vào ngày 25 tháng 8 năm 1945 với việc chiếm đóng thủ phủ Toyohara.

Di tản và phương diện pháp lý

phải|Biên giới giữa Karafuto và Sakhalin thuộc Liên Xô. Có trên 400.000 người sống tại Karafuto khi cuộc tấn công của Liên Xô bắt đầu vào đầu tháng 8 năm 1945. Hầu hết là người Nhật Bản hoặc gốc Triều Tiên, và một cộng đồng nhỏ Bạch vệ cũng như một số người Ainu bản địa. Vào thời gian ngừng bắn, đã có xấp xỉ 100.000 dân thường đã thoát đến Hokkaidō. Chính quyền quân sự do quân đội Liên Xô thành lập ngăn cấm báo chí địa phương, tịch thu ô tô và đài và áp đặt lệnh giới nghiêm. Những người quản lý và quan chức địa phương đã hỗ trợ chính quyền Nga trong quá trình tái thiết, một số người thì bị trục xuất đến các trại lao động cưỡng bức ở phía bắc Sakhalin hay Siberia. Trong các trường học, các khóa học về chủ nghĩa Marx-Lenin được đưa vào chương trình giảng dạy, và trẻ em người Nhật bắt buộc phải học theo chương trình của Liên Xô.

Karafuto từng bước mất đi bản sắc Nhật Bản. Tỉnh Nam Sakhalin được thành lập vào tháng 2 năm 1946, và đến tháng 3 tất cả các thị trấn, làng mạc và đường phố bị đổi sang tên tiếng Nga. Lãnh thổ ngày càng có thêm nhiều người đến từ lục địa Nga, và người Nhật bị buộc phải chia sẻ về nhà ở. Tháng 10 năm 1946, Liên Xô bắt đầu trục xuất tất cả người Nhật còn lại. Đến năm 1950 hầu hết đã hồi hương, cho dù sẵn sàng hay không, đến Hokkaidō, mặc dù họ phải bỏ lại tài sản của mình ở phía sau, bao gồm cả tiến bạc, do đó họ hồi hương trong hoàn cảnh vô gia cư và không một xu dính túi.

Không có hiệp định hòa bình cuối cùng giữa Nga và Nhật Bản, và tình trạng của quần đảo Kuril lân cận vẫn còn đang tranh chấp. Nhật Bản từ bỏ các chủ quyền đối với Nam Sakhalin theo Hiệp ước San Francisco (1952), nhưng cũng không chính thức thừa nhận chủ quyền của Nga đối với nó. Tuy nhiên, không giống như quần đảo Kuril, khu vực này không phải là vùng tranh chấp giữa hai nước.

Địa lý

Kinh tế

nhỏ|[[Đầu máy hơi nước D51 của Nhật Bản nằm bên ngoài ga xe lửa Yuzhno-Sakhalinsk hiện nay tại Sakhalin, Nga. Chúng được Đường sắt Xô viết sử dụng cho đến năm 1979.]] Nền kinh tế thời tiền chiến của Karafuto dựa vào ngư nghiệp, lâm nghiệp và nông nghiệp, cùng với khai thác than đá và dầu khí. Trong lĩnh vực công nghiệp, công nghiệp giấy và ngành công nghiệp sản xuất than đá phát triển tốt. Karafuto bị thiếu hụt lao động trong phần lớn lịch sử tồn tại của nó, và các ưu đãi thuế đã được đưa ra nhằm khuyến khích nhập cư. Trong Thế chiến II, một số lượng lớn người Triều Tiên cũng bị ép buộc tái định cư đến Karafuto.

Một mạng lưới đường sắt rộng lớn đã được xây dựng tại Karafuto để hỗ trợ cho việc khai thác các tài nguyên thiên nhiên. bảo dưỡng 682,6 km đường ray của 4 tuyến đường sắt chính, cộng thêm 58,2 km khác.

Chính quyền

Karafuto trực thuộc chính quyền trung ương ở Tokyo với vị thế thuộc của Nội vụ tỉnh. Thác vụ cục trở thành vào năm 1923 và Karafuto chính thức trở thành một "ngoại địa" của Đế quốc Nhật Bản. Khi Bộ Thuộc địa được hợp nhất vào Đại Đông Á tỉnh vào năm 1942, chính quyền Karafuto được tách ra, và Karafuto trở thành một phần của "nội địa" Nhật Bản.

Trưởng quan Karafuto

Karafuto gồm 4 phó tỉnh (chi sảnh), tên là Toyohara, Maoka, EsutoruShikuka.thành phố Toyohara là một phần của phó tỉnh Toyohara

Thành phố chính

Đến năm 1945, Karafuto được phân thành 4 phó tỉnh, và được chia tiếp thành 11 quận, và chia tiếp thành 41 hạt (một thành phố, 13 thị trấn, và 27 làng)

Thành phố lớn nhất Karafuto là Toyohara. Các đô thị lớn khác là Esutoru ở bắc-trung và Maoka ở nam-trung.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, thường gọi là **Nam Sakhalin**, là một đơn vị hành chính của Đế quốc Nhật Bản trên phần lãnh thổ của đế quốc trên đảo Sakhalin từ năm 1905 đến năm 1945. Với Hòa
**Đế quốc thực dân Nhật Bản** thành lập các thuộc địa ở nước ngoài thành lập bởi Đế quốc Nhật Bản trong khu vực Tây Thái Bình Dương và Đông Á từ năm 1895. Số
là vị Thiên hoàng thứ 119 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Triều đại ông kéo dài từ năm 1780 đến 1817. ## Phả hệ Ông có tên thật là Morohito
**Sakhalin** (, ) là một hòn đảo lớn ở phía bắc Thái Bình Dương, nằm giữa 45°50' và 54°24' vĩ Bắc. Hòn đảo là một phần của nước Nga, và cũng là hòn đảo lớn
**Orok** (_Ороки_ trong tiếng Nga; tên tự gọi: _ульта_, ulta, ulcha) hay **Ngạc La Khắc** (鄂羅克) là một dân tộc sinh sống chủ ở tỉnh Sakhalin tại Nga. Tiếng Orok thuộc nhóm Miền Nam của
**Chó Sakhalin Husky**, còn được gọi là **Chó Karafuto-Ken** (樺太犬), là một giống chó được sử dụng làm chó kéo xe. ## Lịch sử Karafuto-ken có thể được viết tắt là Karafuto, tên tiếng Nhật
thumb|[[Bản đồ địa hình của Nhật Bản]] thumb|Hình ảnh vệ tinh của Nhật Bản là một nhóm gồm 6.852 hòn đảo tạo thành đất nước Nhật Bản. Nó kéo dài hơn 3.000 km (1.900 dặm) từ
là căn cứ hải quân quan trọng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản ở miền bắc Honshu trước và trong Thế chiến II. Nằm trong vịnh Mutsu (ngày nay là thành phố Mutsu, tỉnh
**Người Cao Ly** (tiếng Triều Tiên: 고려사람; tiếng Nga: Корё сарам; tiếng Ukraina: Корьо-сарам) là tên mà người dân tộc Triều Tiên ở các quốc gia hậu Xô Viết dùng để tự gọi mình. Thuật
Núi Phú Sĩ (_Fujisan_ 富士山) Nhật Bản là một đảo quốc bao gồm một quần đảo địa tầng trải dọc tây Thái Bình Dương ở Đông Bắc Á, với các đảo chính bao gồm Honshu,
, là nơi thờ phụng những người lính tử trận vì đã chiến đấu cho Thiên hoàng. Tiền thân của đền thờ này là Tōkyō Shōkonsha (東京招魂社 hay Đông Kinh Chiêu Hồn xã), "đền gọi
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
**Bá tước ,** (9 tháng 11, 1840 - 23 tháng 8, 1900), còn được gọi là **Kuroda Ryōsuke** (黑田 了介, "Hắc Điền Liễu Giới"), là một chính trị gia Nhật Bản thời Meiji, và Thủ
là danh xưng lực lượng quân sự hợp thành của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi nắm được quyền lực kể từ ngày 3 tháng 1 năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện
là một nhà thám hiểm người Nhật Bản sống vào cuối thời Edo. Ông cũng là gián điệp của Mạc phủ Tokugawa. Ông nổi tiếng về chuyến thăm dò và lập bản đồ Sakhalin (được
Văn bản Hiệp ước Sankt-Peterburg năm 1975 bằng tiếng Nga. Thay đổi biên giới giữa Nga và Nhật Bản vào các năm 1855, 1875 và 1945. **Hiệp ước Sankt-Peterburg** (1875) (tiếng Nga: _Петербургский договор_; tiếng
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
là vị Thiên hoàng thứ 121 của Nhật Bản, theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống. Ông ở ngôi từ ngày 10 tháng 3 năm 1846 tới ngày 30 tháng 1 năm 1867. Tên thật
phải|Các hòn đảo tranh chấp trong Quần đảo Kuril. Chữ số năm màu đỏ ghi nhận đường biên giới giữa Nga/Liên Xô và Nhật Bản nhỏ|phải|Kunashir **Vấn đề tranh chấp quần đảo Kuril ** (),
, (sinh ngày 20 tháng 8 năm 1888, mất ngày 11 tháng 10 năm 1970), là một Trung tướng thuộc Lục quân Đế quốc Nhật Bản, tham gia Chiến tranh thế giới thứ hai. ##
right|thumb|Bản đồ Nhật Bản năm 1789 do [[Daikokuya Kōdayū vẽ.]] Đây là danh sách không đầy đủ của các _phiên_ (Han) chính thời Tokugawa. Phiên được hình thành dựa trên cơ sở hiệu quả của
**Chiến tranh Xô–Nhật** (; ) là một cuộc xung đột quân sự trong Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu ngay sau nửa đêm ngày 9 tháng 8 năm 1945, với cuộc xâm lược
nhỏ|300x300px|Cây Phù Tang được vẽ trong một bản khắc từ hình chạm nổi trong lăng mộ nhà Vũ Lương, khoảng giữa thế kỷ thứ 2 **Phù Tang** () đề cập đến các đối tượng khác
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**USS _Barb_ (SS-220)** là một tàu ngầm lớp _Gato_ từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa
() là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm các tỉnh Aomori, Iwate, Miyagi, Fukushima. Nhà thờ chính tòa thánh Phêrô và thánh
() là một giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của Giáo phận bao gồm toàn bộ Hokkaido. Nhà thờ chính tòa Thiên thần hộ mệnh Sapporo, còn được
**Kế hoạch Hula** là một kế hoạch trong Thế chiến II, trong đó Hoa Kỳ chuyển giao các tàu hải quân cho Liên Xô với dự đoán rằng Liên Xô cuối cùng sẽ tham gia
**Đệ nhất Hàng không quân** (**Nhật**: _第一航空軍_ Hepburn: _Dai ichi kōkū-gun_**?**) là một trong những lực lượng không quân của Lục quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Có trụ
**Người Nhật Bản ở Nga** tạo thành từ một phần nhỏ của cộng đồng _Nikkeijin_ trên toàn thế giới, bao gồm chủ yếu là người Nhật Bản ở nước ngoài và con cháu của họ
nhỏ|Kombu khô nhỏ|Kombu khô được bán trong một siêu thị Nhật Bản **_Kombu_** (từ ) là tảo bẹ ăn được chủ yếu từ họ Laminariaceae và được ăn rộng rãi ở Đông Á. Nó cũng