✨Junyō (tàu sân bay Nhật)

Junyō (tàu sân bay Nhật)

Junyō (kanji: 隼鷹, âm Hán-Việt: Chuẩn ưng, nghĩa là "đại bàng") là một tàu sân bay thuộc lớp Hiyō của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn bởi hãng Nippon Yusen Kaisha (Công ty Tàu thủy Thư tín Nhật Bản) tại Nagasaki như một tàu chở hành khách nhanh hạng sang Kashiwara Maru, nhưng được Hải quân Nhật mua lại cùng với chiếc tàu chị em của nó Idzumo Maru vào năm 1940 và được cải biến thành một tàu sân bay.

Lịch sử hoạt động

Tại mặt trận Thái Bình Dương trong Thế Chiến II, nó bắt đầu tham chiến với một lực lượng không quân phối thuộc bao gồm 21 chiếc máy bay tiêm kích Mitsubishi A5M4 và 17 chiếc máy bay phóng ngư lôi Nakajima B5N2. Vào tháng 5 năm 1942, nó được bố trí để hỗ trợ cuộc tấn công quần đảo Aleut, một chiến dịch diễn ra gần như đồng thời với trận Midway. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1942, cùng với tàu sân bay Ryūjō, nó tung ra các đợt không kích nhắm vàocảng Dutch trên đảo Unalaska. Vào ngày 5 tháng 6 nó thực hiện thêm các đợt không kích và bị các máy bay ném bom Mỹ tấn công nhưng không bị thiệt hại.

Sau khi bị mất bốn tàu sân bay hạm đội trong trận Midway, Junyō là một trong bốn tàu sân bay lớn còn lại của Hải quân Nhật (những chiếc kia là Zuikaku, ShōkakuHiyō). Điều này đã làm cho Junyō trở thành một chiếc tàu quan trọng, và đã có những nỗ lực lớn lao nhằm cải biến nó thành một tàu sân bay hạm đội, cho dù nó chậm hơn và có một lực lượng không quan quân phối thuộc nhỏ hơn so với những chiếc tàu sân bay được chế tạo chuyên biệt ShōkakuZuikaku.

Thuyền trưởng Okada Tametsugu tiếp nhận trách nhiệm chỉ huy vào ngày 20 tháng 7 năm 1942. Vào cuối tháng 10 năm 1942, trong chiến dịch Guadalcanal, Junyō tham gia vào trận chiến quần đảo Santa Cruz. Vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, máy bay của nó đã tấn công tàu sân bay USS Enterprise, thiết giáp hạm USS South Dakota và tàu tuần dương hạng nhẹ USS San Juan, và đã đánh trúng được hai chiếc sau.

Vào giữa tháng 11 năm 1942, nó đóng vai trò yểm trợ trên không trong trận hải chiến Guadalcanal kéo dài ba ngày. Vào mùa Xuân năm 1943, máy bay của nó được gửi đếnRabaul cùng với máy bay của các tàu sân bay Nhật Bản khác đặt căn cứ trên đất liền để tấn công các lực lượng đồng Minh tập trung tại Guadalcanal. Vào tháng 6 năm 1943, Junyō giúp bảo vệ một đoàn tàu vận tải quan trọng gửi đến để tăng cường cho lực lượng quân Nhật trên đảo Kiska trong quần đảo Aleut.

Vào ngày 5 tháng 11 năm 1943, ngoài khơi Bungo Suido, Junyō trúng phải một ngư lôi từ chiếc tàu ngầm USS Halibut. Bốn thành viên thủy thủ đoàn thiệt mạng và bánh lái bị hỏng. Junyō phải vào ụ tàu Kure để sửa chữa.

Vào tháng 5 năm 1944, dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Shibuya Kiyomi, Junyō tham gia vào chiến dịch A-Go, một nỗ lực đẩy lùi cuộc tấn công được dự đoán của phía Đồng Minh vào Mariana, Palau hoặc Caroline. Trong Trận chiến biển Philippine diễn ra sau đó vào ngày 20 tháng 6 năm 1944, Junyō bị đánh trúng hai quả bom lúc 17 giờ 30 phút. Ống khói và cột ănten của nó bị phá hủy cùng sàn đáp bị hư hại khiến các hoạt động không lực của nó phải ngưng, nhưng nó đã có thể tự rút lui mà không chịu thêm thiệt hại nào khác; không giống như chiếc tàu chị em của nó là chiếc Hiyō bị đánh đắm bởi ngư lôi. Tuy nhiên, đa số máy bay của nó đã bị mất trong trận đánh này.

Sau khi được sửa chữa tại Kure, nó được bố trí đến Philippines. Nhưng vì không có máy bay, nó đã không thể tham gia vào Trận chiến vịnh Leyte và chỉ được giao các nhiệm vụ vận tải.

Vào ngày 3 tháng 11 năm 1944 nó bị chiếc tàu ngầm Mỹ USS Pintado tấn công gần Makung, nhưng chiếc tàu khu trục Akikaze đi theo hộ tống đã cố ý hứng chịu để chặn những trái ngư lôi và bị chìm mà không có người nào sống sót.

Vào ngày 9 tháng 12 năm 1944, Junyō chuyên chở 200 thành viên thủy thủ đoàn sống sót của chiếc thiết giáp hạm Musashi và được tháp tùng bởi chiếc thiết giáp hạm Haruna và các tàu khu trục Suzutsuki, FuyutsukiMaki. Lực lượng đặc nhiệm này bị tấn công lúc nửa đêm bởi các tàu ngầm Mỹ Sea Devil, PlaiceRedfish. Junyō trúng phải ba ngư lôi khiến 19 người thiệt mạng và nhiều ngăn bị ngập nước khiến chiếc tàu sân bay bị nghiêng 10°–12° về mạn phải, tuy nhiên chiếc tàu vẫn còn di chuyển được với một động cơ. Chiếc Maki cũng bị hư hại bởi một ngư lôi. Đến 04 giờ 00 lực lượng đặc nhiệm Nhật Bản đi đến vùng nước nông khiến các tàu ngầm Mỹ không thể theo đuổi được nữa.

Junyō được đưa vào ụ tàu Kure, nhưng công việc sửa chữa bị ngừng vào tháng 3 năm 1945. Việc thiếu hụt nguyên liệu, nhiên liệu và máy bay cho tàu sân bay khiến cho không cần có đến những chiếc tàu sân bay hạm đội. Junyō tiếp tục được neo đậu tại Sasebo cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó bị tháo dỡ vào năm 1947.

Chiếc chuông của tàu Junyō

Chiếc chuông của tàu Junyō được Hải quân Mỹ tìm thấy gần Saipan; nó bị rơi ra khỏi tàu do chấn động của một quả bom nổ. Chiếc chuông được Đô đốc Chester W. Nimitz trao tặng cho trường đại học Fordham vào năm 1944, "như một tưởng niệm cho những người trẻ yêu quý đã hy sinh trong Thế Chiến II" căn cứ theo lời tấm biển kèm theo. Nó được ban phép bởi Hồng y Spellman, Tổng Giám mục New York, và được rung lên lần đầu tiên bởi Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman vào ngày 11 tháng 5 năm 1946, nhân dịp kỷ niệm một trăm năm thành lập trường đại học này.

Danh sách thuyền trưởng

  • Shizue Ishii(sĩ quan trang bị trưởng): 1 tháng 10 năm 1941 - 3 tháng 5 năm 1942
  • Shizue Ishii: 3 tháng 5 năm 1942 - 20 tháng 7 năm 1942
  • Tametsugu Okada: 20 tháng 7 năm 1942 - 12 tháng 2 năm 1943
  • Mitsuru Nagai: 12 tháng 2 năm 1943 - 25 tháng 12 năm 1943
  • Kiyomi Shibuya: 25 tháng 12 năm 1943 - 19 tháng 12 năm 1944
  • Sasebo Dockyard: 19 tháng 12 năm 1944 - 12 tháng 5 năm 1945
  • Tomiyoshi Maehara: 12 tháng 5 năm 1945 - 15 tháng 8 năm 1945

Tên gọi Hayataka

Junyō đôi khi được dẫn ra trong các nguồn tài liệu của Mỹ trong giai đoạn Thế Chiến II như là Hayataka. Có sự nhầm lẫn này là do đọc tên con tàu viết bằng các ký tự Kanji theo cách kun-yomi (隼鷹 còn có thể đọc là hayataka), thay vì theo cách on-yomi; được chuyển cho những người thẩm vấn Mỹ từ các tù binh chiến tranh Nhật sau trận Midway.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Junyō_** (kanji: 隼鷹, âm Hán-Việt: Chuẩn ưng, nghĩa là "đại bàng") là một tàu sân bay thuộc lớp _Hiyō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn bởi hãng _Nippon Yusen Kaisha_
**_Ryūhō_** (tiếng Nhật: 龍鳳, Long Phụng) là một tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vốn khởi sự hoạt động như là tàu tiếp liệu tàu ngầm _Taigei_, và được rút khỏi
**_Zuihō_** (kanji: 瑞鳳, âm Hán-Việt: Thụy phụng, nghĩa là "_chim phượng tốt lành_") là một tàu sân bay hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó được đặt lườn vào năm 1934 như
**_Hiyō_** (tiếng Nhật: 飛鷹, _Phi Ưng_) là một tàu sân bay thuộc lớp _Hiyō_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, được đưa ra hoạt động trong Thế Chiến II và bị đánh chìm trong
**_Kiso_** (tiếng Nhật: 木曽) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ năm và là chiếc cuối cùng trong lớp _Kuma_ class, và đã từng hoạt
**_Myōkō_** (tiếng Nhật: 妙高) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc; những chiếc còn lại trong
**_Akikaze_** (tiếng Nhật: 秋風) là một tàu khu trục thuộc lớp _Minekaze_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là
**_Chikuma_** (tiếng Nhật: 筑摩) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tone_ vốn chỉ có hai chiếc. Tên của nó được đặt
**_Nagara_** (tiếng Nhật: 長良) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó. Tên của nó được đặt theo tên sông Nagara
**Trận chiến sân bay Henderson**, hay còn được bên Nhật Bản gọi là **trận Lunga Point**, là trận đánh diễn ra từ ngày 23 tháng 10 đến ngày 26 tháng 10 năm 1942 tại Guadalcanal
là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc. Tên của nó được đặt theo con sông Mogami
**_Tone_** (tiếng Nhật: 利根) là một tàu tuần dương hạng nặng của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó vốn bao gồm cả chiếc _Chikuma_. Tên của nó
**_Isuzu_** (tiếng Nhật: 五十鈴) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Isuzu gần đền Ise thuộc khu vực
**_Abukuma_** (tiếng Nhật: 阿武隈) là một tàu tuần dương hạng nhẹ thuộc lớp _Nagara_ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Tên của nó được đặt theo sông Abukuma tại khu vực Tōhoku của Nhật
**_Inazuma_** (tiếng Nhật: 電) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_, (cũng là chiếc cuối cùng của lớp _Akatsuki_ nếu như xem đây là một
**_Akebono_** (tiếng Nhật: 曙) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
nhỏ|phải|_Yūzuki_ đang thoát ra khỏi cảng [[Tulagi né tránh cuộc không kích từ tàu sân bay _Yorktown_ vào ngày 4 tháng 5 năm 1942, khi quân Nhật tấn công Tulagi]] **_Yūzuki_** (tiếng Nhật: 夕月) là
**_Agano_** (tiếng Nhật: 阿賀野) là một tàu tuần dương hạng nhẹ, là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó bao gồm bốn chiếc đã phục vụ cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong Chiến
**_Tatsuta_** (tiếng Nhật: 龍田) là một tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc thứ hai trong lớp _Tenryū_ bao gồm hai chiếc. Tên _Tatsuta_ của nó được đặt
nhỏ|phải|Các tàu khu trục [[Shigure (tàu khu trục Nhật)|_Shigure_ và _Samidare_ hoạt động ngoài khơi bờ biển Bougainville trong quần đảo Solomon, vài giờ trước trận Hải chiến Vella Lavella vào ngày 7 tháng 10
**_Yamagumo_** (tiếng Nhật: 山雲) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc lớp tàu khu trục _Asashio_ bao gồm mười chiếc được chế tạo vào giữa những năm
**_Isonami_** (tiếng Nhật: 磯波) là một tàu khu trục hạng nhất của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, thuộc lớp _Fubuki_ bao gồm hai mươi bốn chiếc, được chế tạo sau khi Chiến tranh Thế
**USS _Wasp_ (CV/CVA/CVS-18)** là một trong số 24 tàu sân bay thuộc lớp _Essex_ được chế tạo cho Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II, và là chiếc tàu chiến thứ chín của Hải
**_Kongō_** (tiếng Nhật: 金剛, Kim Cương) là chiếc tàu chiến-tuần dương đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản thuộc kiểu siêu-Dreadnought, là chiếc dẫn đầu của lớp Kongō bao gồm những chiếc _Hiei_,
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**Trận chiến biển Philippines** (hay còn được gọi là **"Cuộc bắn gà ở quần đảo Mariana"**) là trận hải chiến trong Chiến tranh thế giới thứ hai giữa hải quân Đế quốc Nhật Bản và
**Trận Midway** là một trận hải chiến quan trọng trong thế chiến thứ hai tại chiến trường Thái Bình Dương, diễn ra ngày từ ngày 4 tháng 6 – 7 tháng 6 năm 1942. Hai
**USS _Williamson_ (DD-244)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, được cải biến thành tàu tiếp liệu thủy phi cơ
**Trận hải chiến ở quần đảo Santa Cruz** vào ngày 26 tháng 10 năm 1942, người Nhật Bản thường gọi là **Minami Taiheiyou Kaisen** (南太平洋海戦, みなみたいへいようかいせん) là trận hải chiến thứ tư giữa các tàu
nhỏ|228x228px|Yamamoto (hàng trước, ngồi, thứ 2 bên trái) cùng gia đình, bên trái là Teikichi Hori nhỏ|225x225px|Yamamoto lúc trẻ và Curtis D. Wilbur, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ **Yamamoto Isoroku** (kanji: 山本五十六, Hán Việt:
là tên gọi cuộc triệt thoái của quân Nhật ra khỏi đảo Guadalcanal diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến 7 tháng 2 năm 1943. Cuộc triệt thoái này được tiến hành với sự