✨John của Anh

John của Anh

John (24 tháng 12, 1166 – 19 tháng 10, 1216), biệt danh là John Lackland (tiếng Norman Pháp: '), là Vua của Anh từ 1199 cho đến khi qua đời năm 1216. John để mất Công quốc Normandie vào tay Vua Philippe II của Pháp, dẫn đến sự sụp đổ của Đế quốc Angevin và góp phần cho sự khuếch trương quyển lực vương tộc Capet nước Pháp trong thế kỉ XIII. Chiến tranh Nam tước thứ nhất vào những năm cuối triều John dẫn đến sự hình thành của ', một văn bản thường được coi là bước khởi đầu của Hiến pháp Vương quốc Anh.

John, con trai út của Vua Henry II của Anh và Quận nương Aliénor xứ Aquitaine, ban đầu không được cho là sẽ kế thừa các đất đai của cha mẹ. Sau cuộc nổi dậy thất bại của các huynh trưởng trong giai đoạn 1173 và 1174, tuy nhiên, John trở thành đứa con được sủng ái nhất của Henry. Ông được tấn phong làm Huân tước Ireland năm 1177 và được gia phong một số lãnh địa của người Anh trên lục địa châu Âu. Các huynh trưởng của John gồm William, Henry và Geoffrey chết sớm; đến lúc Richard I trở thành quốc vương năm 1189, John được chỉ định vào ngôi Hoàng thái đệ. John đã không thành công trong nỗ lực chống lại các thế lực tạo phản trong thời gian hoàng huynh của ông rời đất nước để tham gia Thập tự chinh. Mặc dù như thế, sau khi Richard qua đời năm 1199, John được tôn phong làm Vua của Anh, và được vua Pháp Philippe II công nhận quyền kế thừa các đất phong của gia tộc Angevin trên lục địa tại Hiệp ước Le Goulet năm 1200.

Khi chiến tranh với Pháp nổ ra lần nữa năm 1202, John ban đầu đã giành được thế thượng phong, nhưng do thiếu nguồn lực quân sự và cách xử sự của ông với các quý tộc Norman, Breton, và Anjou dẫn đến sự sụp đổ của các thành trì ở Bắc Pháp năm 1204. John giành phần lớn thời gian trong 10 năm tiếp theo để gắng giành lại đất đai đã mất, thăng thuế, cải cách lực lượng quân đội và tái xây dựng các liên minh trên lục địa. Những cải cách tư pháp của John có ảnh hưởng lâu dài về sau đối với hệ thống Thông luật của Anh,... Một cuộc tranh chấp với Giáo hoàng Innocent III dẫn đến John bị rút phép thông công năm 1209, nhưng tranh chấp được hóa giải bởi nhà vua vào năm 1213. Nỗ lực của John nhằm đánh bại Philippe năm 1214 không thành công và người Pháp thắng lớn tại trận Bouvines. Khi ông trở về Anh quốc, John phải đối mặt với cuộc nổi dậy của nhiều nam tước, những người không thoải mái với chính sách tài chính và các xử sự của ông đối với các quý tộc có thế lực trong nước Anh. Mặc dù cả John và các Nam tước đi đến hiệp ước hòa bình __ năm 1215, không bên nào tuân thủ các điều khoản. Nội chiến nổ ra không lâu sau đó, các Nam tước được sự ủng hộ của Louis VIII của Pháp. Cuộc chiến nhanh chóng rơi vào bế tắc. John chết vì bệnh kiết lị khi đang thống lĩnh quân Anh trong chiến dịch ở miền đông cuối năm 1216; những người ủng hộ John đưa trưởng tử của ông là Henry III tiếp tục giành chiến thắng trước Louis và các Nam tước nổi loạn vào năm sau.

Các nhà viết sử đương thời phần lớn chỉ trích vua John, và triều đại của ông trở thành chủ đề cho các tranh luận sôi nổi của các sử gia từ thế kỉ XVI trở đi. Sử gia Jim Bradbury tóm tắt những ý kiến đánh giá hiện tại về các mặt tích cực của John, nhìn nhận rằng ngày nay John được công nhận rộng rãi là một "nhà lãnh đạo cần mẫn, một con người có năng lực, một vị tướng tài ba". Tuy nhiên, các sử gia hiện đại cũng đồng ý rằng ông đã mắc rất nhiều lỗi lầm trong những năm làm vua, bao gồm những điều mà sử gia Ralph Turner mô tả là "ghê gớm, thậm chí là một nhân cách nguy hiểm", chẳng hạn như nhỏ nhen, khó chịu, và tàn ác. Những phẩm chất tiêu cực này đã mang đến những ý tưởng phong phú cho các nhà văn thời Victoria, và John vẫn là một nhân vật phản diện điển hình trong văn hóa phương tây, nhất là các hình tượng trong các bộ phim và câu chuyện về Robin Hood.

Thời niên thiếu (1166–1189)

Tuổi thơ và người thừa kế Angevin

thumb|alt=A coloured map of medieval France, showing the Angevin territories in the west, the royal French territories in the east, and the Duchy of Toulouse in the south.|Lãnh thổ [[Đế chế Angevin (màu cam) vào cuối thế kỉ XII]]

John là con trai của Henry II của Anh và Aliénor xứ Aquitaine, chào đời ngày 24 tháng 12 năm 1166. Henry là người nắm giữa các lãnh địa giáp với Đại Tây Dương—Anjou, Norman và Anh — đồng thời ông cũng mở rộng đế chế bằng các cuộc chinh phạt Bretagne. Henry kế hôn với một nữ quý tộc quyền lực Aliénor xứ Aquitaine, người nắm giữ các Công quốc Aquitaine và tranh chấp quyền thừa kế đối với Toulouse và Auvergne ở miền nam nước Pháp, đồng thời cũng là vợ cũ của Louis VII của Pháp. Từ Anjou và Aquitaine càng đi về phía nam, ảnh hưởng của Henry càng mờ nhạt, hầu như không giống như khái niệm hiện đại về một đế chế. Mối quan hệ gắn kết truyền thống giữa các lãnh địa trong đế quốc chẳng hạn như Norman và Anh dần biến mất theo thời gian. Không rõ ràng những gì sẽ xảy ra với đế quốc sau cái chết của Henry. Mặc dù theo truyền thống trưởng tử thừa kế, ngôi vị và đất đai sẽ được giao cho người con trai trưởng, luật lệ này phổ biến khắp châu Âu, nhưng không có nhiều ảnh hưởng đến các vị vua Norman tại Anh. Nhiều người tin rằng Henry sẽ phân chia đế quốc, cho các con trai mỗi người một phần, và hi vọng các con ông sẽ tiếp tục liên minh với nhau sau khi ông chết. Tình hình còn phức tạp hơn vì, phần lớn lãnh thổ của Angevin đứng đầu là Henry đều là đất chư hầu của Nhà vua nước Pháp thuộc Vương triều Capet. Henry lại lập liên minh với Hoàng đế La Mã Thần thánh cùng chống Pháp, khiến quan hệ giữa các bên càng thêm phức tạp.

Không lâu sau khi chào đời, John bị tách khỏi mẫu thân Aliénor và đặt dưới sự chăm sóc của y tá ướt, một truyền thống lâu đời của các gia đình quý tộc. Aliénor sau đó rời Poitiers, thủ phủ của Aquitaine, và gửi John cùng chị là Joan đến Tu viện Fontevrault ở phía bắc. Điều này được thực hiện với mục đích hướng cho cậu con trai út, vốn không có nhiều hi vọng thừa kế, đến một công việc trong Giáo hội. John từng có khoảng thời gian đến ở cùng với trưởng huynh Henry Vua Trẻ, nơi ông được hướng dẫn về săn bắn và những kĩ năng quân sự. John thích việc dọc sách và, một hành động có thể nói là bất thường trong thời kì này, đã dựng một thư viện sách du lịch. Ông thích cờ bạc, đặc biệt là môn cờ tào cáo, và là một thợ săn sành sỏi, ngay cả theo tiêu chuẩn của thời Trung Cổ. Ông yêu âm nhạc, nhưng thích hát. John là một người "sành đồn trang sức", đã có một bộ sưu tập lớn, và trở nên nổi tiếng với những bộ quần áo lộng lẫy vã cũng có thể, theo biên niên sử của Pháp, là sự cả tin vào những loại rượu dỏm. Khi John lớn lên, ông được trọng vọng vì "vui vẻ, dí dỏm, hào hiệp và hiếu khách"; vào những lúc khác, ông có thể đố kị, quá nhạy cảm và dễ rơi vào cơn nổi nóng, "cắn và gặm những ngón tay" khi giận dữ.

Cuộc sống ban đầu

thumb|alt=An illuminated manuscript, showing Henry and Aquitaine sat on thrones, accompanied by two staff. Two elaborate birds form a canopy over the pair of rulers.|Cha mẹ của John, [[Henry II của Anh|Henry II và Eleanor, tại triều đình]] Trong những năm đầu đời của John, Henry cố gắng giải quyết vấn đề về người kế vị. Henry Vua Trẻ được gia miện Vua Anh vào năm 1170, tuy nhiên không được phụ thân trao cho thực quyền; ông cũng hứa trao Norman và Anjou cho người con trai trưởng này. Richard được tấn phong thành Bá tước xứ Poitou nắm quyền tại Aquitaine, trong khi Geoffrey trở thành Quận công xứ Bretagne. Vào thời điểm này John dường như không được thừa hưởng bất kì đất phong nào đáng kể, và ông bị gọi đùa bằng biệt danh "Lackland" bởi phụ thân mình.

Henry II muốn bảo đảm cho vùng biên giới phía nam của Aquitaine và quyết định hứa hôn đứa con trai út với Alais, con gái và cũng là người kế ngôi của Umberto III của Savoia. Một phần của thỏa thuận này John được hứa sẽ trở thành người cai trị trong tương lai của Savoia, Piemonte, Maurienne, và một những tài sản khác của Bá tước Umberto. Eleanor, cũng không hài lòng với việc chồng mình can thiệp vào công việc của Aquitaine, đã khuyến khích cho Richard và Geoffrey cùng theo anh trai Henry đến Paris.

Trong thời gian xảy ra cuộc chiến John luôn đồng hành với phụ thân, được được trao thêm nhiều đất phong khắp Đế chế Angevin; từ lúc này, hầu hết mọi người cho rằng John chính là đứa con mà Henry II sủng ái nhất, mặc dù vị trí của ông nằm ở rất xa trong danh sách kế vị ngai vàng. Năm 1177, tại Hội nghị Oxford, Henry phế truất William FitzAldelm khỏi vị trí Huân tước Ireland và thay thế bằng John mới lên 10. Henry chuẩn bị để John được công nhận làm Vua Ireland, nhưng Giáo hoàng Luciô III không chịu. John đã xúc phạm các lãnh chúa địa phương bằng cách trêu đùa những bộ râu dài của họ mà ông cho là không hợp thời trang, thất bại trong việc lập liên minh giữa những cư dân Anglo-Norman, dùng đến quân đội đàn áp những người chống đối và thất bại phải trở về Anh vào cuối năm này, đổ hết mọi trách nhiệm cho phó vương, Hugh de Lacy, cho sự thất bại. Cái chết của Geoffrey đã giúp giảm khoảng cách của John đến chiếc ngai vàng Anh.

Richard bắt đầu tìm kiếm liên minh với vua Pháp Philippe II tại Paris năm 1187, và năm sau Richard xưng thần với Philippe đổi lấy sự ủng hộ trong chiến dịch chống lại Henry. Richard và Philippe cùng nhau cất quân đánh Henry, và đến mùa hè năm 1189 nhà vua phải cầu hòa, hứa phong cho Richard làm thái tử. John ban đầu vẫn đứng về phía phụ thân, nhưng đổi phe vào phút chót trước tình hình là Richard gần như sẽ chiến thắng. John được tấn phong thành Bá tước xứ Mortain, và kết hôn với một phụ nữ giàu có là Isabel xứ Gloucester, và được trao cho các vùng đất giàu có tại Lancaster cùng các lãnh địa Cornwall, Derby, Devon, Dorset, Nottingham và Somerset, tất cả đều nhằm mục đích mua sự trung thành. Richard vẫn nắm quyền kiểm soát các tòa lâu đài quan trọng tại các lãnh địa này, nhằm ngăn cản John nắm quá nhiều quyền lực chánh trị và quân sự, và, cũng trong thời gian này, nhà vua tấn phong cậu bé 4 tuổi Arthur xứ Bretagne làm Vương thái tử. Đổi lại, John hứa là sẽ không đến nước Anh trong ba năm tiếp theo, theo lý thuyết thì ba năm này sẽ đủ để Richard hoàn thành cuộc viễn chinh thành công và trở về từ Levant mà không sợ bị John tiếm quyền. Richard bỏ lại các công việc chánh sự ở Anh – trao quyền cho Hội đồng – đứng đầu là Giám mục Hugh de Puiset và William Mandeville, đồng thời tấn phong cho ông William Longchamp, Giám mục xứ Ely, làm Thừa tướng. Mandeville chết ngay sau đó, và Longchamp nắm giữ quyền phụ chánh chung với Puiset, nhưng hai người này ít chịu hợp tác với nhau. John lợi dụng tình hình này để thiết lập cho mình địa vị như người nhiếp chính với chính quyền riêng của mình, gồm các quan chức, thượng thư và cùng quân sĩ của ông, và ông tự coi mình như một Bảo hộ công, thậm chí là nhà vua kế nhiệm. Mâu thuẫn nổ ra giữa John và Longchamp, và vào tháng 11 1191 Longchamp bị cấm cố trong Tháp London còn John nắm lấy quyền cai quản London, ông được các công dân trong thành phố coi như là người kế ngôi của Richard sau này. Cùng lúc đó Walter of Coutances, Tổng Giám mục Rouen, trở về Anh, theo lệnh của Richard để khôi phục lại trật tự. Địa vị của John bị lung lay vì Walter được lòng dân và thông tin truyền từ chiến trường rằng Richard đã kết hôn tại Cyprus, và có khả năng Richard sẽ có con trai hợp pháp để kế vị. nhỏ|Vua John thumb|left|alt=An illuminated picture of King John riding a white horse and accompanied by four hounds. The king is chasing a stag, and several rabbits can be seen at the bottom of the picture.|John trong một [[Deer hunting|cuộc đi săn]] Căng thẳng chánh trị vẫn tiếp tục. John bắt đầu tìm kiếm liên minh với quốc vương Pháp quốc Philippe, người mới vừa trở về từ cuộc viễn chinh. John hi vọng sẽ lấy được Norman, Anjou và các lãnh địa ở Pháp do Richard cai quản đổi lại ông sẽ xưng thần với Philippe. John can thiệp, bác bỏ các tuyên ngôn của Longchamp đổi lại lời hứa về sự ủng hộ từ chánh quyền hoàng gia, bao gồm sự khẳng định lại vị trí Thái đệ của ông. Xung đột nổ ra tại Anh giữa lực lượng hoàng gia trung thành với Richard đối đầu với phe đối lập dẫn đầu bởi John. John lui về Norman, nơi mà Richard cuối cùng đã tóm được ông vào cuối năm này.

Trong những năm còn lại của triều Richard, John tỏ ra trung thành và ủng hộ hoàng huynh, một sự trung thành giả dối. Chánh sách của Richard tại lục địa là cố gắng tổ chức những chiến dịch, để thu lại những vùng đất mà ông đã để mất vào tay Philippe II trong cuộc Thập tự chinh. Ông đề xuất liên minh với nguyên thủ của Flanders, Boulogne và Hoàng đế La Mã Thần thánh để gây áp lực lên Philippe từ mặt trận phía Đức. Năm 1195 John tiến hành cuộc tấn công bất ngờ và bao vây lâu đài Évreux và giành được thắng lợi, và sau đó nắm quyền ở các pháo đài tại Norman chống lại Philippe. Richard dường như đã công nhận John như người kế thừa vào những năm cuối triều đại của ông, nhưng điều này không rõ ràng - và luật pháp của thời Trung Cổ không có quy định về cách giải quyết tranh chấp kiểu này. Với truyền thống của người Norman là ủng hộ John trong khi luật của Angevin ủng hộ Arthur theo nguyên tắc ưu tiên dòng trưởng, vấn đề kế vị nhanh chóng trở thành một cuộc xung đột công khai. John nhận được sự ủng hộ của phần lớn các quý tộc Anh và Norman cho nên đã làm lễ gia miện tại Westminster, cùng sự hậu thuẫn của thân mẫu, Eleanor. Arthur nhận được sự ủng hộ của phần lớn chủ đất ở Breton, Maine và Anjou cùng sự hỗ trợ từ Philippe II, người vẫn nuôi mộng thu phục các lãnh địa của nhà Angevin trên lục địa. Với việc quân đội của Arthur tiến đến Thung lũng Loire valley về phía Angers và quân của Philippe tiến đến vùng thung lũng Tours, đế chế của John đối diện với nguy cơ bị chia cắt ra làm hai.

Cục diện chiến sự tại Norman vào lúc này phụ thuộc rất nhiều vào tiềm năng phòng thủ của các thành trì và chi phí tiến hành các chiến dịch. Miền biên cương của Norman không có nhiều quân đội phòng vệ nhưng có hệ thống các tòa lâu đầi kiên cố, chẳng hạn như Château Gaillard, tại các địa điểm chiến lược, được xây dựng và củng cố bằng các khoản chi phí khổng lồ. Thật khó để bất kỳ một tướng lĩnh nào có thể tiến xa vào lãnh thổ của đối phương mà không đảm bảo được đường hành quân bằng cách chiến lấy những pháo đài này, nhưng nếu làm như vậy thì thời gian sẽ bị kéo dãn ra rất nhiều, lại là một điều bất lợi khác. Quân đội của thời kỳ này được chia thành hai bộ phận là quân đội phong kiến và lính đánh thuê. Quân đội phong kiến chỉ có thể được triệu tập trong khoảng thời gian có giới hạn trước khi họ trở về nhà, và buộc phải dừng chiến dịch lại; lực lượng lính đánh thuê, được gọi bằng tên Brabançons theo tên của Lãnh địa công tước Brabançons nhưng thực sự là được tuyển dụng từ khắp Bắc Âu, có thể dùng suốt cả năm và các tướng chỉ huy có thể có nhiều phương án chiến lược hơn khi dùng lực lượng này, chỉ có điều tiền lương phải trả cho họ thì mắc hơn nhiều. Kết quả là, giới quý tộc ngày càng ưa chuộng quân đánh thuê hơn.

Sau khi đăng cơ, John tiến quân về phía nam tiến vào đất Pháp và quân đội của ông xây dựng một tuyến phòng thủ dọc theo bờ đông và bờ nam xứ Norman. Quân của cả hai bên dừng lại để đàm phán một thời gian trước khi cuộc chiến tiếp tục; lực lượng của John trở nên mạnh hơn, nhờ vào sự ủng hộ của các bá tước Baldwin IX xứ Flanders và Renaud xứ Boulogne những người trước đó đã đồng ý với Richard về một liên minh cùng chống Pháp. Các bên đều không tiếp tục lao vào cuộc chiến, và theo đề nghị của Giáo hoàng hai nhà lãnh đạo đã gặp nhau vào tháng 1 năm 1200 để thương lượng về các điều khoản hòa bình. John, đổi lại, từ bỏ chánh sách cai trị cũ của Richard bao gồm các liên minh với Flanders và Boulogne, và chấp thuận Philippe được công nhận là lãnh chúa tối cao của tất cả lãnh địa của John trên đất Pháp. Chánh sách của John khiến ông bị nhiều sử gia gọi là "John Softsword", để phản đối hành vi trái ngược của ông so với người anh dũng cảm, Richard.

Hòa bình Le Goulet, 1200–1202

thumb|alt=A photograph of a medieval tomb with a carving of Isabella on top. She is lying with her hands clasped, wearing a blue dress.|Tượng của [[Isabella xứ Angoulême, người vợ thứ hai của John, tại Fontevraud Abbey nước Pháp]] Nền hòa bình chỉ kéo dài được khoảng 2 năm; chiến tranh tiếp tục sau khi John quyết định kết hôn với Isabella xứ Angoulême vào tháng 8 năm 1200. Để có thể tái hôn, John cần phải hoàn tất thủ tục li dị với Isabel, Nữ Bá tước xứ Gloucester, người vợ đầu; John thực hiện điều này bằng cách lập luận rằng ông đã không nhận được quyền miễn trừ từ Giáo hoàng để thực hiện cuộc hôn nhân cận huyết cùng Isabel – người chị em họ, John không thể cưới bà một cách hợp pháp nếu không nhận được quyền miễn trừ.

Isabella, tuy nhiên, đã đính hôn với Hugues xứ Lusignan, một thành viên thuộc một đại gia tộc ở Poitou và là em của Bá tướcRaoul de Eu, người sở hữu các vùng đất trọng yếu dọc theo bờ đông xứ Norman. Thay vì đưa ra các điều khoản bù đắp, John đối với Hugues "bằng sự khinh miệt"; điều này dẫn tới việc Lusignan nổi loạn nhưng nhanh chóng bị đè bẹp bởi John, đồng thời ông cũng ngăn chặn được thế lực của Raoul ở đất Normand. Các hoạt động của John trở nên hỗn loạn hơn khi chiến dịch tiến triển, và Philippe bắt đầu ổn định ở phía đông. John đến tháng 7 nhận ra rằng lực lượng của Arthur đang đe dọa đến mẹ ông, Eleanor, đang ở tại Mirebeau Castle. Được hộ tống bởi William de Roches, người chấp chính ở Anjou, ông đưa lực lượng đánh thuế của mình tiến về phía nam đểswung his mercenary army rapidly south to protect her. Lực lượng của ông bất ngờ tập kích bắt sống Arthur và đè bẹp đám tàn quân còn lại tại Trận Mirebeau. Với việc sườn phía nam yếu đi, Philippe buộc phải rút về phía đông và phía nam để ngăn cản quân của John.

Tổ tiên

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**John** (24 tháng 12, 1166 – 19 tháng 10, 1216), biệt danh là **John Lackland** (tiếng Norman Pháp: **'), là Vua của Anh từ 1199 cho đến khi qua đời năm 1216. John để mất Công
**Henry VII** (tiếng Wales: _Harri Tudur_; tiếng Anh: _Henry VII of England_; 28 tháng 1, 1457 - 21 tháng 4, 1509) là Quốc vương của nước Anh và là Lãnh chúa của Ireland, lên ngôi
**Richard I** (8 tháng 9 năm 1157 – 6 tháng 4 năm 1199) là Quốc vương nước Anh từ 6 tháng 7 năm 1189 cho tới khi mất. Ông cũng là Công tước của Normandy,
**Victoria của Liên hiệp Anh** (Alexandrina Victoria; 24 tháng 5 năm 1819 – 22 tháng 1 năm 1901) là Nữ vương Vương quốc Liên hiệp Anh từ ngày 20 tháng 6 năm 1837 cho đến
**Mary I của Anh** (tiếng Anh: _Mary I of England_; tiếng Tây Ban Nha: _María I de Inglaterra_; tiếng Pháp: _Marie Ire d'Angleterre_; tiếng Đức: _Maria I. von England_; tiếng Ý: _Maria I d'Inghilterra;_ 18
**Richard II** (6 tháng 1, 1367 – c. 14 tháng 2, 1400), còn được gọi là **Richard xứ Bordeaux**, là Vua của Anh từ 1377 đến khi bị lật đổ ngày 30 tháng 9 năm
**Charles I của Anh** (19 tháng 11 năm 1600 – 30 tháng 1 năm 1649) là vua của ba vương quốc Anh, Scotland, và Ireland từ 27 tháng 3 năm 1625 đến khi bị hành quyết
**Charles II của Anh** (29 tháng 5 năm 1630 – 6 tháng 2 năm 1685) là vua của Anh, Scotland, và Ireland. Ông là vua Scotland từ 1649 đến khi bị lật đổ năm 1651, và
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**George VI của Liên hiệp Anh** (Albert Frederick Arthur George; 14 tháng 12 năm 1895 – 6 tháng 2 năm 1952) là Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự
**Mary II của Anh** (30 tháng 4 năm 1662 – 28 tháng 12 năm 1694) là đồng quân vương của Vương quốc Anh, Scotland, và Ireland cùng với chồng và cũng là anh họ, Willem
Vương quốc Anh (Anh) bao gồm bốn quốc gia: Anh, Scotland và xứ Wales (cùng tạo nên Vương quốc Anh) và Bắc Ireland (được mô tả khác nhau là một quốc gia, tỉnh hoặc khu
nhỏ|Prince John, khoảng năm 1912-1913. **Vương tử John của Liên hiệp Anh** (John Charles Francis; 12 tháng 7 năm 1905 – 18 tháng 1 năm 1919) là con trai thứ 5 và là con út
**Henry V** (16 tháng 9 năm 1386 – 31 tháng 8 năm 1422) là vua nước Anh cai trị từ năm 1413 tới khi băng hà. Trong triều đại ngắn ngủi của mình, vua Henry
**Anne của Đại Anh và Ireland** (tiếng Anh: _Anne, Queen of Great Britain_; 6 tháng 2, năm 1665 – 1 tháng 8, năm 1714), là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland,
**Edward VI của Anh** (tiếng Anh: _Edward VI of England_; tiếng Pháp: _Édouar VI d'Angleterre_; tiếng Tây Ban Nha: _Eduardo VI de Inglaterra_; 12 tháng 10 năm 1537 – 6 tháng 7 năm 1553) là
**Edward III của Anh** (13 tháng 11, 1312 – 21 tháng 6, 1377) là Vua của Anh và Lãnh chúa Ireland từ tháng 1 1327 đến khi qua đời; cuộc đời hiển hách của ông
**James VI và I** (19 tháng 6 năm 1566 – 27 tháng 3 năm 1625) là vua Scotland với vương hiệu là **James VI**, và là vua Anh và vua Ireland với vương hiệu là
**Edward I của Anh** (17/18 tháng 6 1239 – 7 tháng 7 1307), còn được gọi là **Edward Longshanks** và **Kẻ đánh bại người Scots** (Latin: _Malleus Scotorum_), là Vua của Anh từ 1272 đến
**William IV của Liên hiệp Anh** (William Henry; 21 tháng 8 năm 1765 – 20 tháng 6 năm 1837) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ 26 tháng 6 năm 1830 cho
**Elizabeth I của Anh** (tiếng Anh: _Elizabeth I of England;_ tiếng Pháp: _Élisabeth Ire d'Angleterre;_ tiếng Tây Ban Nha: _Isabel I de Inglaterra;_ 7 tháng 9 năm 153324 tháng 3 năm 1603) là Nữ vương
**James II và VII** (14 tháng 10 năm 1633 – 16 tháng 9 năm 1701) là vua của Anh và Ireland với vương hiệu **James II** và cũng là vua của Scotland với vương hiệu
**George III của Liên hiệp Anh** (George William Frederick; 4 tháng 6 năm 1738 – 29 tháng 1 năm 1820) là Quốc vương Đại Anh và Ireland cho đến khi hai vương quốc hợp nhất
**Henry IV của Anh** (3 tháng 4 năm 1367 - 20 tháng 5 năm 1413) là vua Anh và Pháp (tranh cãi khi ông là vua Pháp), lãnh chúa của Ireland từ năm 1399 đến
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
**George V** (3 tháng 6 năm 1865– 20 tháng 1 năm 1936) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn Độ, từ 6 tháng 5
**Edward VIII của Anh** (Edward Albert Christian George Andrew Patrick David; 23 tháng 6 năm 1894 – 28 tháng 5 năm 1972) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của
**George II của Vương quốc Liên hiệp Anh** (George Augustus, tiếng Đức: _Georg II. August_, 30 tháng 10 hoặc 9 tháng 11 năm 1683 – 25 tháng 10 năm 1760) là Quốc vương Liên hiệp
**George IV** hay **George Đệ Tứ** (tên tiếng Anh: George Augustus Frederick; 12 tháng 8 năm 1762 – 26 tháng 6 năm 1830) là Quốc vương Vương quốc Anh và Vua của Hannover từ sau
**Eleanor của Anh** (tiếng Anh: _Eleanor of England_; tiếng Pháp: _Aliénor d'Angleterre_; tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Inglaterra_; khoảng 1161 - 31 tháng 10 năm 1214 ), là Vương hậu của Castilla và Toledo
**William III** hoặc **Willem III xứ Oranje** (14 tháng 11 năm 1650 – 8 tháng 3 năm 1702) là Thân vương của xứ Orange, từ năm 1672 là _Stadtholder_ các tỉnh Holland, Zeeland, Utrecht, Guelders,
**Henry VIII** (28 tháng 6 năm 1491 – 28 tháng 1 năm 1547) là Quốc vương của nước Anh từ ngày 21 tháng 4 năm 1509 cho đến khi băng hà. Ông là Lãnh chúa,
**Edward IV** (28 tháng 4, 1442 – 9 tháng 4, 1483) là một vị vua nước Anh, trị vì lần thứ nhất từ ngày 4 tháng 3 năm 1461 đến ngày 3 tháng 10 năm 1470,
**Henry VI** (tiếng Anh: _Henry VI of England_; 6 tháng 12, 1421 – 21 tháng 5, 1471) là Quốc vương của Vương quốc Anh từ năm 1422 đến năm 1461 và một lần nữa, từ
**Henry của Anh** (tiếng Anh: Henry of England; 6 tháng 5 năm 1268 – 14 tháng 10 năm 1274 tại Merton, Surrey) là người con thứ năm và là con trai thứ hai của Edward
**William II của Anh** (tiếng Norman cổ: Williame) (khoảng 1056 - 2 tháng 8 năm 1100), người con thứ ba của "William Nhà chinh phạt", là vua nước Anh từ 1087 tới 1100. Ông là
**Elizabeth Stuart** (28 tháng 12 năm 1635 – 8 tháng 9 năm 1650) là con gái thứ hai của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Từ khi sáu tuổi cho đến khi
**Henrietta Anne của Anh** (tiếng Pháp: _Henriette-Anne Stuart d'Angleterre_; 16 tháng 6 năm 1644 - 30 tháng 6 năm 1670), biệt danh **Minette**, là một Vương nữ Anh, con gái của Charles I của Anh
**Eadwig**, cũng viết là **Edwy** (mất ngày 1 tháng 10 năm 959), đôi khi được gọi là **Eadwig Công chính** (_All-Fair_), là Vua của Anh từ năm 955 cho đến khi ông mất sớm. Là
**Henry III của Anh** (1 tháng 10 năm 1207 - 16 tháng 11 năm 1272), còn được gọi là Henry Winchester, là vua của nước Anh, Lãnh chúa của Ireland và Công tước xứ Aquitaine
**Eleanor của Anh** (tiếng Anh: _Eleanor of England_; 18 tháng 6 năm 1269 – 29 tháng 8 năm 1298) là con gái lớn nhất sống qua tuổi ấu thơ của Edward I của Anh và
**Catalina của Aragón và Castilla**, (tiếng Tây Ban Nha: _Catalina de Aragón y Castilla_; tiếng Anh: _Catherine of Aragon_; tiếng Đức: _Katharina von Aragon_; tiếng Bồ Đào Nha: _Catarina de Aragão e Castela_; tiếng Pháp:
**Mary của I Scotland** (tiếng Anh: _Mary, Queen of the Scots_; tiếng Pháp: _Marie Ire d’Écosse_; 8 tháng 12, 1542 – 8 tháng 2, 1587), thường được gọi là **Nữ vương Mary**, **Nữ hoàng Mary**,
**Leonor của Castilla** (tiếng Tây Ban Nha: _Leonor de Castilla_; tiếng Anh: _Eleanor of Castilla_; năm 1241 – 28 tháng 11 năm 1290) là Vương hậu nước Anh từ năm 1272 đến năm 1290, và
**Tượng Thánh John của Nepomuk tại Divina** là Đài tưởng niệm Văn hóa Quốc gia của Slovakia. Divina là ngôi làng và đô thị lần đầu xuất hiện trong các ghi chép lịch sử vào
thumb|Victoria của Anh Xuất thân thực sự của Victoria của Anh đã trở thành chủ đề của các cuộc nghiên cứu. Những nghi ngờ về việc này chủ yếu xoay quanh các vấn đề bệnh
**Crown của Anh** là loại xu bạc có mệnh giá cao nhất của Vương quốc Anh và Scotland, nó ra đời sau khi Anh và Scotland Liên minh với nhau vào năm 1707. Nói đúng
**John Winston Ono Lennon** (tên khai sinh: **John Winston Lennon**; 9 tháng 10 năm 19408 tháng 12 năm 1980) là nam ca sĩ, nhạc sĩ, nhạc công và nhà hoạt động hòa bình người Anh,
**John Felix Anthony Cena** (sinh ngày 23 tháng 4 năm 1977) là đô vật chuyên nghiệp, rapper, diễn viên và người dẫn chương trình truyền hình người Mỹ. Anh hiện đang ký hợp đồng với
**_John Wick: Chapter 4_** (cách điệu khác là **_JW4_**) là một bộ phim hành động neo-noir của Mỹ do Chad Stahelski đạo diễn và Shay Hatten và Michael Finch viết kịch bản. Là phần tiếp