✨Jean Cassaigne Sanh

Jean Cassaigne Sanh

Marie Pierre Jean Cassaigne Sanh (30 tháng 1 năm 1895 - 31 tháng 10 năm 1973) là một giám mục Công giáo người Pháp thuộc Hội Thừa sai Paris, phục vụ tại Việt Nam. Ông từng giữ chức Đại diện Tông Toà Hạt Đại diện Tông Tòa Sài Gòn từ năm 1941 đến năm 1955. Ông nổi tiếng là vị giám mục của người phong vì sự quan tâm đặc biệt của ông đối với những người mắc bệnh phong.

Khoảng năm 1927, linh mục Jean Cassaigne chọn một khu đất dưới chân đồi nhằm xây dựng các ngôi nhà tranh để chăm sóc các bệnh nhân phong. Nơi đây, ông chung sống, hàng ngày băng bó săn sóc cho những người mắc bệnh phong cùi bị mọi người xa lánh. Ông ở trại phong Di Linh do mình thành lập vào hai giai đoạn, từ năm 1927 đến năm 1941 khi được bổ nhiệm làm giám mục và sau khi từ chức năm 1955 cho đến khi qua đời năm 1973.

Jean Cassaigne là một trong số 25 người Công giáo thuộc các giáo hội địa phương trên toàn thế giới được Hội Giáo hoàng Truyền giáo, Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc chọn làm mẫu gương cho đời sống đức tin Công giáo cũng như việc loan truyền đức tin Công giáo. Họ là những nhân vật đại diện cho Tháng Truyền giáo Ngoại thường, tổ chức vào tháng 10 năm 2019. Ông được đề cập đến trong tập sách được xuất bản nhằm mục đích chào đón sự kiện trên, Tháng Truyền giáo Ngoại thường với Đức Cha Jean Cassaigne.

Thiếu thời và tu tập

Jean Cassaigne Sanh sinh ngày 30 tháng 1 năm 1895 với tên khai sinh là Jean Pierre Marie Cassaigne, là con trai duy nhất của một tiểu thương bán rượu là ông Joseph Cassaigne, mẹ là bà Nelly ở phường Grenade, Adour, địa phận Dax, vùng Tây Nam nước Pháp.

Jean Cassaigne lần đầu tiên nhận bí tích Thánh Thể vào ngày 29 tháng 7 năm 1906 và nhận bí tích Thêm Sức sau đó gần một năm vào ngày 26 tháng 5 năm 1907. Vì rất nghịch nên năm 12 tuổi, thân phụ gửi Jean Cassaigne vào trường nội trú do các tu sĩ dòng La San (thường gọi là sư huynh La San) điều hành, với kỷ luật rất nghiêm ngặt.

Lên cấp hai trung học, Jean Cassaigne bị buộc theo ngành Thương nghiệp để nối tiếp nghề của cha. Nhưng ông chỉ muốn vào chủng viện.

Tháng 7 năm 1914, chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ, chủng viện tạm đóng cửa và chủng sinh Cassaigne xin nhập ngũ. Cậu được biên chế vào Lữ đoàn Long kỵ binh số 6 rồi được đưa ra mặt trận Noyon, cách Paris 80 cây số về hướng Bắc. Bốn năm sau đó, ngày 14 tháng 7 năm 1918, chiến tranh kết thúc, cậu được huân chương Anh dũng Bội tinh và từ chối đề nghị hôn nhân. Việc bổ nhiệm này xảy ra vào ngày 24 tháng 1 năm 1927, khi Giám mục Isidore-Marie Dumortier Đượm cử linh mục Cassaigne đến Di Linh, một vùng chưa có tín hữu Công giáo và là nơi sinh sống của người dân tộc K’Ho. Tại Di Linh, ông được cung cấp một ngôi nhà dựng bằng cây, có gác. Ông cử hành lễ Công giáo tại một căn phòng thuộc căn nhà với bàn thờ là một bàn đọc. Việc cử hành lễ tại nhà này kéo dài đến sáu tháng sau khi ông đến đây. Nói về vật chất, ông cho biết nơi Di Linh không có nguồn lợi, nhưng vẫn có đồ dùng tiếp tế.

Ngày 14 tháng 11 năm 1927, linh mục Jean Cassaigne mắc bệnh sốt rét và nằm li bì, không thể ăn uống trong thời gian một tuần. Sức lực ông cạn kiệt và thân hình xanh xao. Căn bệnh này thực tế lặp đi lặp lại trong suốt thời gian ông ở tại Di Linh, 14 năm. Tuy vậy, linh mục Sanh giấu bệnh với giám mục vì lo lắng bị thuyên chuyển đến nhiệm sở khác. Nhiều lần do thấy linh mục Sanh vắng mặt quá lâu, các linh mục có nhiệm sở ở gần Di Linh đến thăm thì phát hiện linh mục Sanh cùng các cộng sự viên là cậu giúp lễ và ông nấu ăn đều đang đau bệnh. Tuy vậy, việc thuyết phục linh mục này đến bệnh viện chữa bệnh là không thể vì ông kiên quyết ở lại với giáo dân. Lần đầu tiên đưa được linh mục Cassaigne đến bệnh viện chỉ kéo dài chưa đầy một tháng, với nguyên do khởi sự từ giám mục Dumortier yêu cầu linh mục Quản lý đến thăm linh mục Cassaigne. Linh mục này sau khi nhận thấy tình hình tại đây đã yêu cầu đưa xe đến Di Linh đưa linh mục Cassaigne đến bệnh viện.

Buổi đầu về nhận xứ, linh mục Sanh bận rộn với nhiều công việc khác nhau: truyền và dạy đạo lý Công giáo và nâng cao đời sống cho người dân. Vào ban ngày, ông dạy chữ cho trẻ em, ban chiều thì dạy lớp giáo lý Công giáo dành cho những người mong muốn gia nhập đạo Công giáo và đến tối mở lớp dạy học cho người lớn. Linh mục Sanh có biệt danh Oâng lớn làm thuốc vì ông thường chữa trị và phát thuốc khi có người đau ốm. Chính việc này mà ông nhận được sự quý mến từ nhiều người. Quá trình học tiếng K’Ho của ông là nghe người dân tộc nói vào ban ngày và đến đêm thì biên soạn và dần cho ra đời cuốn sách "Thượng ngữ" bỏ túi với 3 thứ tiếng: K’Ho, Pháp, Việt,

Năm 1936, họ đạo Công Hinh được thành lập và nhà nguyện họ đạo khánh thành vào ngày 15 tháng 8 cùng năm. Đầu năm 1939, linh mục Jean Cassaigne cùng giáo dân K’Brai đi thăm các làng Kulbum, B’Sout, K’Rot và cho hình thành giáo điểm Kala (nay là giáo xứ Kala, Giáo phận Đà Lạt).

Sau 14 năm lãnh đạo xứ Di Linh, linh mục Jean Cassaigne đã đóng góp cho giáo hội Công giáo địa phương một nhà thờ cùng nhóm 795 giáo dân gồm: 15 người Pháp, 134 người Kinh, 218 người Thượng, 350 giáo dân tại Công Hinh, 78 người Thượng tại làng cùi. Ngoài ra còn có 133 tân tòng (người mới gia nhập đạo Công giáo) đang chuẩn bị lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.

Cùng trong năm 1929, Jean Cassaigne thành lập trường học đầu tiên tại Di Linh, lúc đầu trường chỉ có 2 lớp với 32 học sinh (toàn là người dân tộc Kơ Ho) đặt ở trong nhà xứ.

Jean Cassaigne lâm bệnh sốt rét rừng, buộc phải về Pháp chữa trị trong 9 tháng, Sau những ngày do dự, mặc dầu tâm hồn nặng trĩu, ông đã phải đánh điện qua Rôma: FIAT (Xin vâng!)

Ngày 19 tháng 12 năm 1954, vào ngày kỷ niệm thụ phong linh mục, ông cử hành lễ tạ ơn. Ông phát hiện vị trí phía trên cổ tay một chút của mình cả một vết đỏ màu hồng rượu. Sau khi lễ xong, ông lấy kim khâu châm vào và nhận ra đó là dấu hiệu của bệnh phong vì không cảm thấy đau.

Ông gửi thư cho Khâm sứ Tòa thánh ở Việt Nam và Tổng quyền Hội Thừa sai Paris (ngày 5 tháng 3 năm 1955)

Đầu năm 1973, ông lâm vào trạng thái lúc tỉnh lúc hôn mê. Đến ngày 31 tháng 10 năm 1973 thì ông qua đời.

  • Chủ phong: Tổng giám mục Antonin-Fernand Drapier , Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam.
  • Phụ phong: Giám mục Jean-Baptiste-Maximilien Chabalier , Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Phnôm-Pênh, Campuchia và Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục, Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Vĩnh Long.

Giám mục Jean Cassaigne Sanh là giám mục phụ phong trong nghi thức tấn phong cho các giám mục sau:

  • Năm 1942, Jean Liévin Joseph Sion Khâm , cố Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Kon Tum.
  • Năm 1955, Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, cố giám mục Tiên khởi Giáo phận Đà Lạt.
  • Năm 1955, Phaolô Nguyễn Văn Bình, cố tổng giám mục Tiên khởi Tổng giáo phận Sài Gòn.
  • Năm 1961, Philípphê Nguyễn Kim Điền, cố tổng giám mục Tổng giáo phận Huế.
  • Năm 1961, Micae Nguyễn Khắc Ngữ, cố giám mục Tiên khởi Giáo phận Long Xuyên.
  • Năm 1961, Antôn Nguyễn Văn Thiện, cố giám mục Tiên khởi Giáo phận Vĩnh Long.
  • Năm 1961, Giuse Trần Văn Thiện, cố giám mục Tiên khởi Giáo phận Mỹ Tho.
  • Năm 1966, Giuse Phạm Văn Thiên, cố giám mục Tiên khởi Giáo phận Phú Cường.
  • Năm 1966, Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm, cố giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài Gòn.

Tóm tắt chức vụ

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Marie Pierre Jean Cassaigne Sanh** (30 tháng 1 năm 1895 - 31 tháng 10 năm 1973) là một giám mục Công giáo người Pháp thuộc Hội Thừa sai Paris, phục vụ tại Việt Nam. Ông
**François Arsène Jean Marie Eugène Lemasle Lễ** là một giám mục Công giáo người Pháp, phục vụ truyền giáo tại Việt Nam. Ông từng chức Giám mục Tông Toà Giáo phận Huế từ năm 1937
**Philipphê Nguyễn Kim Điền** (13 tháng 3 năm 1921 – 8 tháng 6 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục chính tòa Tiên khởi Giáo phận
**Phaolô Nguyễn Văn Bình** (1 tháng 9 năm 1910 – 1 tháng 7 năm 1995) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông nguyên là Tổng giám mục Tiên khởi của Tổng
**Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền** (1906–1973) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Roma tại Việt Nam, ông là người Việt thứ 11 được tấn phong giám mục, giám mục người Việt đầu
**Giuse Phạm Văn Thiên** (1907–1997) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Phú Cường, đồng thời giữ chức vụ này từ
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
**Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục** (6 tháng 10 năm 1897 – 13 tháng 12 năm 1984) là một Giám mục Công giáo Việt Nam. Ông từng giữ chức Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
**Micae Nguyễn Khắc Ngữ** (1909–2009) là một Giám mục người Việt của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhiệm vai trò Giám mục chính tòa tiên khởi của giáo phận Long Xuyên từ
**Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm** (1902–1976) là một giám mục người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách vai trò giám mục phụ tá Tổng giáo phận Sài Gòn kiêm
thumb|phải|Huy hiệu Giám mục Đa Minh Nguyễn Văn Mạnh **Giáo phận Đà Lạt** (tiếng Latin: _Dioecesis Dalatensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma tại Việt Nam. Đến năm 2017, giáo phận có diện tích
**Nhà thờ chính tòa Đức Bà Sài Gòn** (hay **Vương cung thánh đường chính tòa Đức Mẹ Vô nhiễm Nguyên tội**, tiếng Anh: _Immaculate Conception Cathedral Basilica_, tiếng Pháp: _Cathédrale Notre-Dame de Saïgon_), thường được