✨Hội quán Lệ Châu

Hội quán Lệ Châu

Lệ Châu hội quán Hội quán Lệ Châu (hay Lệ Châu hội quán) tọa lạc tại số 586 đường Trần Hưng Đạo, thuộc Phường 14, Quận 5; là nhà thờ tổ nghề thợ kim hoàn sớm nhất tại Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam).

Tên gọi

Hội quán khi mới cất xong (1892) công trình có tên tạm là Nhà thờ tổ kim hoàn. Đến năm 1934, ngôi thờ được đại trùng tu (và tồn tại cho đến nay) bằng cột gỗ lim, mái ngói móc lợp theo kiểu âm dương, phía trước đền có bộ cửa sắt bao bọc, trên vòm cửa có thêm bốn chữ: Lệ Châu hội quán bằng đồng và dọc hai bên cửa sắt có câu đối: :''Lệ thủy kim sinh cơ quốc thái :Châu đê ngân xuất nghiệp dân an. Dịch: :''Sông Lệ sinh vàng nên quốc thái :Bờ Châu ra bạc nghiệp dân an.

Hiện có hai giả thuyết về cái tên Lệ Châu: :-Thứ nhất, tên lấy từ câu: Kim trầm lệ thủy, ngân xuất châu đê, có nghĩa vàng chìm sông lệ, bạc xuất bờ châu. Do ngoài việc thờ tổ (Cao Đình Độ và Cao Đình Hương), nơi này còn là nơi quy tụ các tay thợ kim hoàn (còn được gọi là thợ bạc), nên ngôi thờ được gọi Lệ Châu hội sở rồi đổi thành Lệ Châu hội quán.

:-Thứ hai, hội quán lập ra để nhớ ơn ba người họ Trần (ba anh em ruột và đều là học trò của ông Cao Đình Hương) là Trần Hòa, Trần Điện và Trần Điền đã vào vùng Sài Gòn - Chợ Lớn truyền dạy nghề kim hoàn. Sau một thời gian, các ông tiếp tục qua Nam Vang (Campuchia), Lào, Thái Lan tiếp tục việc truyền dạy rồi không trở về nữa. Vì vậy, các thợ bạc Chợ Lớn lấy tên Lệ Châu, với nghĩa là nước mắt để nói lên nỗi mất mát, thương nhớ những người thầy của mình.

Nguồn gốc

Vào những năm cuối thế kỷ 19, tại Chợ Lớn và các vùng lân cận, nghề kim hoàn đã rất phát đạt. Để ghi nhớ ơn tổ và thầy, một số chủ lò kim hoàn, gồm các ông Nguyễn Tường Long, Võ Văn Tường, Huỳnh Văn Tiên, Trần Văn Lập, Cao Đình Huế, Thái Hồng Hưng… đã đứng ra vận động, quyên góp từ các lò kim hoàn, các thợ bạc ở khắp nơi và mua được một khu đất rộng ở đường Thủy Binh (Rue des Marins, nay là đường Trần Hưng Đạo) gần nhà thờ Cha Tam. Và nhà thờ tổ được khởi công vào năm 1892 đến năm 1896 thì hoàn thành. Tính đến nay, ngôi thờ này đã trải qua bốn lần sửa sang, đó là vào các năm 1920, 1934, 1946, 1968. Lần sau cùng, nhà thờ được trung tu lớn: cất lại Nghĩa từ, sửa chữa lại chánh điện do chiến tranh gây hư hại...

Đây là một trong những ngôi nhà được xây dựng sớm nhất tại Sài Gòn. Trong sách Sài Gòn năm xưa, Vương Hồng Sển viết: :"Đường Nguyễn Trãi đi một đoạn khỏi đường Tổng Đốc Phương gặp chùa Lệ Châu. Đây là "chùa tổ" thờ tổ sư của nhóm thợ và chủ lò kim hoàn. Sau những người Hoa kiều đồng nghề cũng nhập với đồng nghiệp Việt Nam nên mỗi năm cúng tổ long trọng và oai nghi lắm"...

Kiến trúc

Hội quán nằm trên một khu đất rộng 802 m2, được xây dựng theo kết cấu ba gian dọc, với hai hàng cột chạy dài từ ngoài vào trong. Tường gạch tô, mái lợp ngói âm dương, trước có sân rộng khoảng 400 m2.

Nơi chính điện có ba khám thờ, được trang trí bằng những bao lam chạm trổ rồng, phụng, hoa, điểu... sắc nét công phu. Khám thờ lớn ở giữa có bài vị chạm hai chữ Tổ sư theo lối đại tự, thờ Đệ nhất Tổ sư Cao Đình Độ Giáp Dần (1774)–Canh Ngọ (1810) và Đệ nhị Tổ sư Cao Đình Hương Quý Tỵ (1733)-Tân Tỵ (1821), hai khám hai bên hơi nhỏ hơn, thờ các vị tổ đời thứ hai, truyền dạy nghề kim hoàn ở Phan Thiết, đó là ba anh em họ Huỳnh: Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật và thờ các vị tổ đời thứ hai, truyền dạy nghề kim hoàn ở Chợ Lớn đó là ba anh em họ Trần: Trần Hòa, Trần Điện và Trần Điền.

Toàn hội quán có 9 bức hoành phi và 6 cặp câu đối đều được sơn son thiếp vàng, mang nội dung nói lên lòng nhớ ơn tổ và ca ngợi sự phát triển, thịnh đạt của nghề thợ bạc, như câu Bản thủy sơn tiên, Nghệ truyền nguyên phái v.v...Điều đáng chú ý là các khám thờ, hoành phi, câu đối, bao lam... đều được sơn son thếp vàng. Nhờ loại giấy quỳ có độ tuổi vàng cao, cho nên dù đã trải qua nhiều năm tháng, đến nay tất cả vẫn còn bóng láng và rõ nét.

Ngoài ra, còn những hiện vật quý, như: :Trống lớn có chiều cao 1,10 m, đường kính 0,60 m, tang trống không phải bằng những mảnh gỗ ghép, mà là một khúc cây to khoét rỗng. :Chuông cao 1m, đường kính 0,50 m, trên chuông để niên đại do thợ Hà Nội chế tác năm Ất Mùi (1895). :Bốn tấm bia đá đặt hai bên vách chánh điện, ghi rõ các năm tạo dựng: 1895, 1916, 1920. Trên bia khắc họ tên họ, nơi ở, số tiền đóng góp để xây dựng nhà thờ tổ. Nhờ những tấm bia này, mà ta được biết vào thời buổi ấy, nghề kim hoàn của người Việt và người Việt gốc Hoa đã có mặt ở nhiều nơi như: Tây Cống, Đề Ngạn Trà Vinh, Bến Tre, Cần Thơ... :Một số bàn, bình phong chạm khắc tinh xảo, mô tả cảnh sơn thủy, do những người làm nghề thợ bạc dâng tặng.

Năm 1998, Ban quản trị hội quán ra từ đường họ Kim Hoàn ở Huế rước hai bản sao sắc phong thần do vua Khải Định và vua Bảo Đại đã ban cho hai vị tổ.

Các vị tổ

Nghề kim hoàn là một trong những nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời. Những món trang sức như vòng tay, khoen tay, trâm cài... bằng vàng, bằng bạc đã được tìm thấy trong những cuộc khai quật khảo cổ, hoặc còn được lưu giữ đã nói lên điều ấy.

Nhưng tra trong thư tịch cổ, không thấy ghi ai là vị tổ khai sáng nghề kim hoàn vào thời kỳ xa xưa trên đất Việt. Làng nghề kim hoàn sớm nhất giờ đây được biết đó làng Châu Khê, thuộc xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương đã có lịch sử tồn tại trên 500 năm, bắt nguồn từ Lưu Xuân Tín, quan Thượng thư bộ Lại dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460–1494) có công khởi dựng nghề đúc bạc nén của làng.

Và hai người làm nghề kim hoàn nổi tiếng khác, được thờ ở Lệ Châu hội quán là Cao Đình Độ và Cao Đình Hương, chỉ là người sống ở giữa thế kỷ 18.

Công lao

Cao Đình Độ (1744-1810) người làng Cẩm Tú, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Gia đình ông vốn làm nghề nông. Thuở trẻ, ông theo học chữ Nho, lớn lên ông làm nghề bịt đồng, nhưng lòng luôn ao ước được trở thành người thợ kim hoàn giỏi. Để học được nghề, ông phải cải trang thành người Hoa, xin vào giúp việc cho một chủ tiệm vàng ở Thăng Long. Bởi lúc bấy giờ chỉ có người Hoa, mới biết cách chế tác. Sẵn bản tính hiếu học, trung thực, hiền lành, ông Độ được chủ thương và tận tình truyền dạy nghề cho ông. Sau một thời gian rèn luyện, ông đã thành thạo nghề.

Năm 1783, ông Cao Đình Độ đưa vợ và con trai vào làng Kế Môn, huyện Phong Điền, Thuận Hóa lập nghiệp, thu nhận đệ tử và truyền lại nghề cho con là Cao Đình Hương. Từ đó, làng Kế Môn trở thành làng nghề kim hoàn.

Nghe tiếng, vào năm 1790, vua Quang Trung (1753–1792) đã cho triệu hai cha con ông cùng một số thợ bạc của làng Kế Môn, vào triều đình để lập cơ vệ Ngân Tượng, chuyên lo việc chạm trổ vàng bạc và đồ trang sức trong cung điện. Vì vậy, ông đưa gia đình đến sống tại làng Cao Hậu (Hương Trà, Thuận Hóa). Nhờ làm việc tốt, Cao Đình Độ được phong chức Lãnh binh.

Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh (1762-1820) lên ngôi, những gì thuộc về vương triều Tây Sơn đều bị phá hủy, chỉ duy nhất ngành Ngân Tượng được bảo tồn và những người làm việc ở cơ vệ ấy đều được lưu dụng.

Năm 1810, ông Cao Đình Độ qua đời, hưởng thọ 66 tuổi. Con là Cao Đình Hương được kế tục sự nghiệp của cha với chức lãnh binh, nhưng ít lâu sau, ông xin từ quan. Lúc bấy giờ Thượng thư bộ Lại là Trần Minh, mời ông về dinh phủ dạy nghề kim hoàn cho ba người con trai là Trần Hòa, Trần Điện, Trần Điền và ba người cháu là Huỳnh Quang, Huỳnh Bảo, Huỳnh Nhật.

Hơn 10 năm truyền dạy nghề, năm 1821, ông Cao Đình Hương qua đời. Theo mong muốn của thầy trước khi mất, là nghề kim hoàn được truyền bá rộng khắp, ba anh em Trần Hòa, Trần Điện và Trần Điền đến làng Định Công (Hà Nội), ba người họ Huỳnh vào đất Phan Thiết, rồi cả hai nhóm đều mở lò và thu nhận đệ tử...Không rõ năm nào, ba anh em họ Trần bỏ đất Bắc để vào Nam. Và sau khi truyền nghề cho 36 đệ tử ở Chợ Lớn, ba anh em lại tiếp tục đến các tỉnh miền Tây, sang Campuchia, Lào, Thái Lan... rồi cả ba người qua đời khi nào, ở đâu không ai được rõ.

Nếu như hai ông họ Cao có công khai sáng nghề kim hoàn, thì ba ông họ Trần, ba ông họ Huỳnh là người có công phổ biến nghề trên khắp đất nước Việt và các nước lân cận.

Ghi nhận công lao

Chính điện Lệ Châu hội quán. Hiện nay, tại Từ đường họ Kim Hoàn, ở số 7 chùa Ông, phường Phú Cát, thành phố Huế, còn lưu giữ nhiều bản sắc phong của các vua nhà Nguyễn, như các sắc phong cho ông Cao Đình Độ là "Tiến sĩ khai hóa nghề kim hoàn", là Lãnh binh, là "Đệ nhất tổ sư".

Đến thời vua Minh Mạng, Cao Đình Hương được phong tước hiệu "Đệ nhị tổ sư". Và cả hai ông đều được sắc phong là "Dực bảo Trung hưng Linh phò Bổn sứ - Khai hóa Kim ngân Thế tổ Cao Đình Độ tọa thần vị, Cao Đình Hương linh thần vị", được ban đất xây mộ như các vị quan lớn.

Đời vua Khải Định năm thứ 9 (1924) ngày 25 tháng 9, hai ông được phong "Dực bảo Trung hưng Linh phò chi Thần". Năm Bảo Đại thứ 13 (1938), hai ông được gia phong một lần nữa.

Hiện nay, khu mộ hai vị tổ sư đều tọa lạc tại phường Trường An về phía Nam thành phố Huế, trong đó, mộ Cao Đình Độ xây dựng năm 1810, mộ Cao Đình Hương xây dựng năm 1821.

Nhà thờ và khu mộ của hai ông đều đã được Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng Di tích Lịch sử Văn hóa.

Lễ giỗ tổ

Ban quản trị hội quán Lệ Châu đã chọn ngày giỗ của Đệ nhị Tổ sư Cao Đình Hương, để tổ chức lễ cúng tế. Lễ tế được diễn ra trong vào 3 ngày:

:Ngày 6 tháng 2 âm lịch: Lễ Trần thiết được bắt đầu vào 8 giờ sáng, buổi tối có buổi cúng cầu quốc thái dân an, tuyên đọc sắc phong tổ sư và nhắc lại nguồn gốc của nghề. :Ngày 7: Lễ Chánh tế (tế tổ) được bắt đầu vào 22 giờ đêm. Lễ tế có rượu, trái cây, cơm, canh, thịt kho... giống như mâm cơm cúng ông bà. Đặc biệt, ngoài những thứ vừa kể, lễ vật cúng tổ còn có một con heo đồ (heo trắng không quay) và hai con vịt trắng. Và món ăn trong những buổi chiêu đãi này, chủ yếu là thịt vịt, bởi những nghệ nhân xưa cho rằng con vịt thường ở dưới nước, luôn tắm gội, nên tượng trưng cho sự sạch sẽ. Mà sạch sẽ hiểu theo nghĩa trong sạch, chính là một đức tính mà bất kỳ người thợ kim hoàn nào cũng cần phải luôn ghi nhớ và giữ gìn . :*Ngày 8: Lễ Tế nghĩa được bắt đầu vào 16 giờ, để nhớ ơn những người đã có công xây dựng hội quán.

Ngoài lễ giỗ ở nơi đây, hàng năm, các thợ kim hoàn ở Huế, ở cũng có tổ chức lễ giỗ tổ trọng thể cho hai ông Cao Đình Độ và Cao Đình Hương. Tại làng Định Công (Hà Nội) có lễ giỗ tổ ba anh em họ Trần, ở Phan Thiết có lễ giỗ tổ cho ba anh em họ Huỳnh...

Giá trị

Ngoài giá trị về kiến trúc, về cổ vật, Lệ Châu hội quán còn thể hiện nhiều giá trị khác: Hội quán là nơi để những người theo nghề thợ bạc, tỏ lòng biết ơn đối với người đã có công truyền dạy nghề.

Là nơi hằng năm, vào 3 ngày lễ giỗ tổ, hàng ngàn người trong ngành kim hoàn, ở Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh thuộc Nam Bộ đã đến, để cúng bái và chia sẻ những tâm tư và nghề nghiệp…

Là trụ sở của "Hội Lệ Cộng hòa tương tế ái hữu thợ bạc" ngay từ năm 1936, rồi là trụ sở bí mật của Nghiệp đoàn thợ bạc cứu quốc, là cơ sở của Ban kinh tài và là nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng.

Do những giá trị trên, vào ngày 31 tháng 8 năm 1998, Lệ Châu hội quán đã được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia, theo quyết định số 1811/1998 - QĐ-BVHTT.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Lệ Châu hội quán **Hội quán Lệ Châu** (hay Lệ Châu hội quán) tọa lạc tại số 586 đường Trần Hưng Đạo, thuộc Phường 14, Quận 5; là _nhà thờ tổ nghề thợ kim hoàn
**Đại hội Thể thao châu Á**, còn gọi là **ASIAD**, là sự kiện thể thao đa môn cấp châu lục được tổ chức bốn năm một lần dành cho các vận động viên đến từ
**Đại hội Thể thao châu Á 2018** ( or _Asian Games 2018_), tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 18** (), còn được biết đến với tên gọi **Jakarta-Palembang 2018**
**Đại hội Thể thao châu Á 2010** (), tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 16** () còn được gọi là **Quảng Châu 2010** (), là một sự kiện thể
**Đại hội Thể thao châu Á 2014** (), tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 17** () còn được gọi là **Incheon 2014** (), là một sự kiện thể thao
**Đại hội Thể thao châu Á 2006** (), tên chính thức là **Asiad** **XV** hay **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 15** (, còn được gọi phổ biến là **Doha 2006** (), là
**Đại hội Thể thao châu Á 1958**, tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ ba** () thường được gọi là **Tokyo 1958** (), là một sự kiện thể thao đa
**Đại hội Thể thao châu Á 1974** (), còn được gọi là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 7**, **Tehran 1974** (), diễn ra từ ngày 1 đến 16 tháng 9 năm 1974
**Đại hội Thể thao châu Á 2022** (, , Hán Việt: _Nhị linh nhị nhị niên Á châu Vận động hội_), thường được gọi là **Á vận hội XIX** (, , Hán Việt: _Đệ thập
**Đại hội Thể thao châu Á 1998** (), tên chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 13** () còn được gọi là **Asiad** **XIII** hoặc đơn giản là **Bangkok 1998** (),
**Hội quán Hà Chương** (chữ Hán: 霞漳會館) còn có tên là **Hội quán Chương Châu**, hay còn được gọi là **chùa Ông Hược**. hoặc **chùa Bà Hà Chương**; hiện tọa lạc tại số 802 Nguyễn
**Đại hội Thể thao châu Á 2030** (, ), chính thức được gọi là **Asiad XXI** () và thường được gọi là **Doha 2030**, sẽ là lần thứ 21 của Đại hội Thể thao châu
Chùa Ông (Quảng Triệu Hội Quán). Ảnh chụp năm 2013.|thế= **Quảng Triệu Hội Quán** (chữ Hán: 廣肇會館), thường được gọi là **Chùa Ông**, là cơ sở tín ngưỡng tọa lạc tại số 32 đường Hai
**Đại hội Thể thao châu Á 2002**, tên gọi chính thức là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 14** hay **Busan 2002** (), là một sự kiện thể thao đa môn cấp quốc
thumb|Logo cũ. **Hiệp hội Quần vợt Chuyên nghiệp** hay **Hiệp hội Quần vợt Nhà nghề** (, viết tắt **ATP**), được thành lập vào năm 1972, là Hiệp hội quần vợt của các tay vợt nam.
**Đại hội Thể thao châu Á** **1982** (), còn được gọi là **Đại hội Thể thao châu Á lần thứ 9**, **Delhi 1982** (), được tổ chức từ ngày 19 tháng 11 đến ngày 4
**Bóng đá** **nam** tại **Đại hội Thể thao châu Á 2022** được tổ chức từ ngày 19 tháng 9 đến ngày 7 tháng 10 năm 2023 ở Trung Quốc. Độ tuổi tham dự bóng đá
**Giải đấu bóng đá nam tại Đại hội Thể thao châu Á 2010** được tổ chức từ ngày 8 tháng 11 đến ngày 25 tháng 11 năm 2010 tại Quảng Châu, Trung Quốc. ## Địa
**Đại hội Thể thao châu Á 2014** đặc trưng 49 địa điểm thi đấu và 48 cơ sở đào tạo trên 16 ngày thi đấu trò chơi từ ngày 19 tháng 9 đến ngày 4
**Việt Nam** sẽ tranh tài tại **Đại hội Thể thao châu Á 2018** ở Jakarta và Palembang, Indonesia, từ ngày 18 tháng 8 đến ngày 2 tháng 9 năm 2018. Cơ quan quản lý thể
**Việt Nam tham dự Đại hội Thể thao châu Á 1998** tại Bangkok, Thái Lan với 198 vận động viên, huấn luyện viên và quan chức tham dự 14 môn thể thao gồm bắn súng,
**Việt Nam tham dự Đại hội Thể thao châu Á 2002** tại Busan, Hàn Quốc với 125 vận động viên và 65 huấn luyện viên cùng quan chức. ## Bảng huy chương Đoàn thể thao
**Hội quán Ôn Lăng** (chữ Hán: 溫陵會館, hay Ôn Lăng hội quán) còn được gọi là **chùa Ôn Lăng**, **chùa Quan Âm** hay **chùa Ông Lào**; là một ngôi chùa của người Việt gốc Hoa,
**Hội quán Nghĩa An** (chữ Hán: 義安會館), thường được gọi là **Miếu Quan Đế** hay **Chùa Ông**, là một cơ sở tín ngưỡng của người Tiều tại 678 đường Nguyễn Trãi, thuộc phường 11, quận
Hội quán Tuệ Thành vào năm 2013 **Hội quán Tuệ Thành** (chữ Hán: 穗城會館), thường được gọi là **Miếu Thiên Hậu** hay **Chùa Bà Chợ Lớn**, là một cơ sở tín ngưỡng thờ Thiên Hậu
thế=a wreath of flowers that highlight many other gifts of flowers and candles outside a short metal fence around the area of investigation|nhỏ|297x297px|Tưởng niệm những người thiệt mạng trong các [[Các vụ tấn công Île-de-France
Miếu Nhị Phủ **Hội quán Nhị Phủ** (chữ Hán: 二府會館), còn được gọi là **Miếu Nhị Phủ** hay **Chùa Ông Bổn**, là một cơ sở tín ngưỡng tại địa chỉ số 264 đường Hải Thượng
phải|nhỏ|Cổng Hội quán Tam Sơn trên đường Triệu Quang Phục **Hội quán Tam Sơn** (chữ Hán: 三山會館) là một cơ sở tín ngưỡng tại địa chỉ số 118 đường Triệu Quang Phục, Phường 11, Quận
phải|nhỏ|Hội quán Quảng Triệu **Hội quán Quảng Triệu** (chữ Hán: 廣肇會館), còn được gọi là **Miếu Thiên Hậu** hay **Chùa Bà Cầu Ông Lãnh**, là một cơ sở tín ngưỡng tại địa chỉ số 156
**Phố cổ Hội An** là một đô thị cổ nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn, thuộc vùng đồng bằng ven biển thành phố Đà Nẵng, Việt Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 30 km
**Chiến dịch Mãn Châu** hay _Chiến dịch tấn công chiến lược Mãn Châu_ (tiếng Nga: _Манчжурская стратегическая наступательная операция_), hay _Cuộc tấn công của Liên Xô vào Mãn Châu_ hay _Chiến tranh chống lại Nhật
**Lễ hội Nghinh Ông Quan Thánh Đế Quân** là một lễ hội của người Hoa tại Phan Thiết. Lễ hội truyền thống này tiêu biểu cho phong tục tập quán và tín ngưỡng của người
**Phật Đản** (chữ Hán: 佛誕 - nghĩa là _ngày sinh của đức Phật_) hay là **Vesak** (, Devanagari: वैशाख, Sinhala: වෙසක් පෝය) là ngày kỷ niệm Phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm sinh ra tại vườn Lâm-tì-ni năm
thumb|upright=1.8|Một hình ảnh động hiển thị khi các lãnh thổ và tiểu bang Hoa Kỳ cấm hoặc cho phép chế độ nô lệ, 1789–1861 thumb|right|Khối đấu giá nô lệ, Đồn điền Green Hill, [[quận Campbell,
nhỏ|Các binh sĩ Trung Quốc vào khoảng 1899-1901. Trái: hai lính Tân quân. Trước: một chỉ huy Lục doanh quân. Ngồi trên thân cây: pháo thủ. Phải: Binh sĩ Nghĩa hòa đoàn.|348x348px **Tân quân **(phồn
Hội quán nông dân là một mô hình tổ chức cộng đồng của những người nông dân, được xây dựng dựa trên sự tình nguyện và sự hợp tác giữa các thành viên. Mô hình
**Phan Châu Trinh** hay **Phan Chu Trinh** (chữ Hán: 潘周楨; 1872 – 1926), hiệu là **Tây Hồ** (西湖), biệt hiệu **Hy Mã** (希瑪), tự là **Tử Cán** (子幹). Ông là nhà thơ, nhà văn, và
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
**Trận Ngọc Hồi – Đống Đa** (hay **Chiến thắng Kỷ Dậu**) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Lê Đại Hành** (chữ Hán: 黎大行; 10 tháng 8 năm 941 - 18 tháng 4 năm 1005), tên húy là **Lê Hoàn** (黎桓). Ông là vị Hoàng đế sáng lập nhà Tiền Lê, trị vì
Ngày 22 tháng 5 năm 2011, các cử tri Việt Nam đã tham gia cuộc Bầu cử Đại biểu Quốc hội để chọn 500 đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII từ 827 ứng
**Vấn đề biên giới Việt–Trung thời Lê sơ** phản ánh những hoạt động quân sự – ngoại giao giữa nhà Lê sơ ở Việt Nam với triều đại nhà Minh của Trung Quốc xung quanh
**Quan Vũ** (, 158?–220), hay **Quan Công**, tự **Vân Trường** (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp
nhỏ|phải|Đại lễ Kỳ Yên năm 2018 tại Miếu Ngũ Hành Nương Nương, Bình Hưng Hòa A, Bình Tân **Lễ Kỳ yên** (có nghĩa là _lễ cầu an_) là lễ tế thần Thành hoàng lớn nhất
right|thumb|Các tỷ giá ngoại hối chủ yếu đối với USD, 1981-1990. **Thị trường ngoại hối** (**Forex**, **FX**, hoặc **thị trường tiền tệ**) là một thị trường phi tập trung toàn cầu cho việc trao đổi
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Cách mạng Tân Hợi** () còn được gọi là **Cách mạng Trung Quốc** hay **Cách mạng năm 1911** là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí
**Châu Thành** là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Châu Thành nằm ở phía nam tỉnh Long An, cách thành phố Tân An khoảng 12 km, cách trung tâm