thế=Hội chứng sợ chó|nhỏ|Hội chứng sợ chó
Hội chứng sợ chó (có tên khoa học là Cynophobia, xuất phát từ tiếng Hy Lạp: κύων kýōn có nghĩa là "chó" và φόβος vicebos có nghĩa là "sợ hãi") là một nỗi sợ và ám ảnh về những con chó. Hội chứng sợ chó được phân loại là một ám ảnh cụ thể, thuộc loại hội chứng sợ động vật ở người. Theo Tiến sĩ Timothy O. Rentz ở Phòng thí nghiệm nghiên cứu rối loạn lo âu tại Đại học Texas, nỗi ám ảnh động vật nằm trong số những triệu chứng phổ biến nhất và 36% bệnh nhân được khảo sát mắc hội chứng sợ chó hoặc sợ mèo Mặc dù sợ rắn và sợ nhện là nỗi sợ những loài động vật phổ biến hơn, nhưng hội chứng sợ chó đặc biệt làm con người trở nên yếu ớt vì tỷ lệ chó xuất hiện cao (ví dụ, có khoảng 25 triệu con chó hoang thả rông ở Ấn Độ và ước tính khoảng 62 triệu con chó ở Hoa Kỳ) và sự thiếu hiểu biết chung của những người nuôi chó đối với loại ám ảnh này. Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DSM-IV-TR) báo cáo rằng chỉ có 12% đến 30% những người bị ám ảnh cụ thể sẽ tìm được cách điều trị phù hợp
Chẩn đoán
DSM-IV-TR cung cấp các tiêu chuẩn sau để chẩn đoán một ám ảnh cụ thể:
Nỗi sợ hãi dai dẳng đối với một vật thể hoặc một tình huống nào đó.
Tiếp xúc với đối tượng đáng sợ gây ra những phản ứng lo âu ngay lập tức
Những người mắc phải các hội chứng nhận ra rằng nỗi sợ hãi là quá mức chịu đựng của họ và hoàn toàn không hợp lý (điều này không phải lúc nào cũng xảy ra với trẻ em)
Khi tiếp xúc với các vật thể sợ hãi, những người mắc phải hội chứng thường tránh né chúng hoặc phải chịu đựng nỗi sợ hãi.
Nỗi sợ hãi cản trở đáng kể các hoạt động hàng ngày (xã hội, gia đình, nghề nghiệp, v.v.)
Bệnh nhân nhi (những người dưới 18 tuổi) có triệu chứng kéo dài ít nhất sáu tháng.
Những lo âu, sự né tránh hoặc phản ứng hoảng loạn không gây nên bởi các rối loạn tâm thần khác.
Cuốn sách Phobias định nghĩa một phản ứng hoảng loạn như "một cơn khủng bố bất ngờ kéo dài ít nhất một vài phút với những biểu hiện điển hình của nỗi sợ hãi dữ dội". Những biểu hiện này có thể bao gồm đánh trống ngực, đổ mồ hôi, run rẩy, khó thở, thôi thúc bệnh nhân chạy trốn, ngất xỉu hoặc chóng mặt, khô miệng, buồn nôn và/hoặc một số triệu chứng khác. Ví dụ như hội chứng sợ chó, những người mắc phải sẽ biểu hiện một loạt các phản ứng hoảng loạn khi đối diện với một con chó hoặc những hình ảnh liên quan đến chó. Hơn nữa, hành vi tránh né cũng phổ biến và có thể bao gồm các việc tránh xa các khu vực mà chó có thể xuất hiện (ví dụ: công viên) hoặc tránh nhà của bạn bè và/hoặc gia đình sở hữu một con chó.
Nguyên nhân
Độ tuổi
Jeanette M. Bruce và William C. Sanderson, trong cuốn sách Phobias của họ, kết luận rằng độ tuổi khởi phát cho những ám ảnh động vật thường là thời thơ ấu, từ năm đến chín tuổi. Một nghiên cứu được thực hiện ở Nam Phi bởi Tiến sĩ. Willem A. Hoffmann và Lourens H xác nhận rằng con người tiếp tục mắc chứng sợ hãi và phát hiện thêm ám ảnh về chó thậm chí cho đến 20 tuổi.
Giới tính
Bruce và Sanderson cũng nói rằng nỗi ám ảnh động vật phổ biến hơn ở phái nữ so với nam giới. Hơn nữa, Tiến sĩ B.K. Wiederhold tiếp tục đưa ra các dữ liệu cho rằng mặc dù phổ biến ở cả nam và nữ nhưng có đến 75% đến 90% bệnh nhân được khảo sát mắc phải các hội chứng sợ động vật là phụ nữ.
Điều trị
Các phương pháp phổ biến nhất để điều trị các ám ảnh cụ thể là liệu pháp giải cảm ứng có hệ thống hoặc điều trị phơi nhiễm.
Liệu pháp giải cảm ứng có hệ thống
Liệu pháp giải cảm ứng có hệ thống đã được Joseph Wolpe giới thiệu vào năm 1958 với cách sử dụng các kỹ thuật làm thư giãn những người mắc hội chứng trong các tình huống tưởng tượng. Trong một môi trường được kiểm soát, thường là văn phòng của bác sĩ chuyên khoa, bệnh nhân sẽ được hướng dẫn để hình dung một tình huống bị đe dọa (tức là ở cùng phòng với một con chó). Sau khi xác định mức độ lo âu của bệnh nhân, bác sĩ chuyên khoa sẽ hướng dẫn các bệnh nhân bắt đầu bằng các bài tập thở và các kỹ thuật thư giãn để giảm sự lo lắng của họ về đến mức bình thường. Liệu pháp này sẽ tiếp tục cho đến khi tình huống tưởng tượng không còn gây ra phản ứng lo lắng cho bệnh nhân nữa.
Phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu trên được thực hiện bởi các tiến sĩ. Hoffmann và Human, theo đó mười hai nữ sinh viên tại khu Arcadia của trường cao đẳng Technikon Pretoria ở Nam Phi được phát hiện có các triệu chứng của hội chứng sợ chó. Mười hai học sinh này được cung cấp liệu pháp giải cảm ứng có hệ thống một giờ mỗi tuần và kéo dài trong năm đến bảy tuần; sau tám tháng, các học sinh được liên lạc lại để đánh giá hiệu quả của liệu pháp. Kết quả cuối cùng cho thấy nghiên cứu khá thành công với 75% số người tham gia cho thấy sự cải thiện đáng kể sau 8 tháng tham gia nghiên cứu.
Liệu pháp tự điều trị
Mặc dù thường được thực hiện với sự giúp đỡ của một nhà trị liệu trong một môi trường chuyên nghiệp, việc tiếp xúc với chó cũng có thể được thực hiện như một liệu pháp tự điều trị. Đầu tiên, bệnh nhân được khuyên nên tận dụng sự giúp đỡ của một người trợ lý có thể giúp thiết lập môi trường tiếp xúc với chó, hỗ trợ trong việc xử lý những trường hợp bất trắc do con chó gây ra trong các lần trị liệu và đồng thời, thể hiện hành vi mô hình hóa. Đây cũng là một người mà bệnh nhân tin tưởng và không sợ chó. Sau đó, người mắc hội chứng sẽ được đánh giá mức độ sợ hãi dựa trên phản ứng của họ trong các tình huống. Ví dụ, trên thang điểm từ mức 0 đến 100, một bệnh nhân có thể cảm thấy rằng việc nhìn vào những bức ảnh của những con chó có thể gây ra một nỗi sợ hãi chỉ có ở mức 50, tuy nhiên, vuốt ve đầu của một con chó có thể gây ra phản ứng sợ hãi ở mức 100. Tiếp theo, người trợ lý sẽ giúp bệnh nhân tái tạo lại tình huống đáng sợ nhất trong một môi trường an toàn, được kiểm soát, tiếp tục cho đến khi bệnh nhân có cơ hội để cho phép nỗi sợ hãi giảm xuống, do đó củng cố nhận thức rằng nỗi sợ hãi là vô căn cứ. Khi một tình huống đã được làm chủ, tình huống đáng sợ tiếp theo được tái tạo và quá trình được lặp lại cho đến khi tất cả các tình huống trong hệ thống phân cấp đã được bệnh nhân trải qua hết.
Các video mẫu cho thấy con người và con chó tương tác mà không thể hiện sự sợ hãi luôn có sẵn để cho bệnh nhân xem như một phần để điều trị nhận thức.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thế=Hội chứng sợ chó|nhỏ|Hội chứng sợ chó **Hội chứng sợ chó** (có tên khoa học là Cynophobia, xuất phát từ tiếng Hy Lạp: κύων kýōn có nghĩa là "chó" và φόβος vicebos có nghĩa là
nhỏ|phải|Nỗi ghê sợ những con chuột là một dạng hội chứng sợ động vật **Hội chứng sợ động vật** hay **hội chứng sợ thú vật** (_Zoophobia_) là một dạng của hội chứng sợ (phobias) biểu
**Hội chứng sợ đồng tính luyến ái** (tiếng Anh: _homophobia_) là sự sợ hãi, có ác cảm hoặc kỳ thị đối với người đồng tính hay tình trạng đồng tính luyến ái một cách phi
nhỏ|Đèn ngủ như thế này có thể được sử dụng để chống lại sự sợ hãi của bóng tối. **Hội chứng sợ bóng tối, **có tên khoa học là Nyctophobia, là nỗi sợ hãi hoặc
nhỏ|phải|Tranh minh hoạ về hội chứng sợ kim tiêm, trong đó cô gái tưởng tượng ra cây kim tiêm với kích thước quá cở **Hội chứng sợ kim tiêm**, được biết đến trong y học
**Hội chứng sợ sấm sét**, có tên khoa học là **Astraphobia**, còn có các tên gọi khác là astrapophobia, brontophobia, keraunophobia, hoặc tonitrophobia, là một nỗi sợ bất thường về sấm và sét, đây là
**Hội chứng sợ không gian kín**, có tên khoa học là **Claustrophobia**, là nỗi sợ bị bao vây trong một không gian nhỏ hoặc phòng và không thể trốn thoát. Nó có thể xảy ra
**Hội chứng sợ những điều mới lạ**, có tên khoa học là Neophobia, là nỗi sợ hãi về bất cứ điều gì mới lạ, đặc biệt đây là một nỗi sợ hãi dai dẳng và
**Hội chứng sợ bị bỏ rơi** hay **Hội chứng sợ bị đơn độc**, có tên khoa học là **monophobia**, **isolophobia**, hoặc **eremophobia**, là một loại ám ảnh cụ thể gây ra bởi nỗi sợ hãi
**Hội chứng sợ ánh nhìn**, có tên khoa học là Scopophobia, scoptophobia, hoặc ophthalmophobia, là một rối loạn lo âu được đặc trưng bởi một nỗi sợ hãi về việc bị nhìn thấy hoặc bị
**Hội chứng sợ bị trêu cười**, có tên khoa học là Gelotophobia, là nỗi sợ bị người khác cười vào mình, đây là một loại ám ảnh xã hội. Trong khi hầu hết mọi người
**Hội chứng sợ nôn**, có tên khoa học là Emetophobia, là một loại ám ảnh gây ra những áp lực, căng thẳng, lo lắng liên quan đến việc nôn mửa. Ám ảnh cụ thể này
**Hội chứng sợ xã hội**, hay **ám ảnh sợ xã hội**, (tiếng Anh: _social phobia_, _Social anxiety disorder_) là một dạng trong nhóm bệnh rối loạn lo âu được mô tả bởi đặc điểm sợ
**Hội chứng sợ độ cao**, tên khoa học là Acrophobia là một nỗi sợ hãi hoặc ám ảnh cực đoan về độ cao, đặc biệt đối với những người có chiều cao bình thường. Nó
**Hội chứng sợ sạch sẽ**, có tên khoa học là Ablutophobia (từ tiếng Latin ablutere 'to wash off ") là nỗi sợ hãi liên tục, bất thường, không có cơ sở về việc sợ tắm
**Hội chứng sợ ong** (có tên khoa học là melissophobia từ tiếng Hy Lạp: μέλισσα, melissa, "ong mật" +, phobos, "sợ", và đôi khi bị viết sai chính tả thành melissaphobia, ngoài ra nó còn
thumb|right|Nước biển ở [[eo biển Malacca.]] **Hội chứng sợ biển** hay **thalassophobia**, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: _thalassa_ nghĩa là "sea", "biển" và φόβος, _phobos_ là "fear", "sợ") là chứng sợ biển, nỗi ám
**Hội chứng sợ mắc phải những hội chứng sợ**, có tên khoa học là Phobophobia, là một nỗi sợ hãi đối với các loại ám ảnh và, cụ thể hơn, cảm giác nội bộ liên
**Hội chứng sợ công nghệ hiện đại,** có tên khoa học là Technophobia (từ tiếng Hy Lạp τέχνη technē, "nghệ thuật, kỹ năng, thủ công" và φόβος phobos, "sợ hãi") là nỗi sợ hãi hoặc
**Hội chứng sợ trẻ em,** còn được gọi cách khác là nỗi sợ hãi trẻ sơ sinh hoặc nỗi sợ hãi thời thơ ấu có tên khoa học là pedophobia (tiếng Anh Mỹ), paedophobia hoặc
**Hội chứng sợ bay **là một nỗi sợ hãi khi ở trên máy bay, hoặc các phương tiện bay khác, chẳng hạn như trực thăng đang bay. Nó cũng được gọi là một loại ám
**Hội chứng sợ nấu ăn**, có tên khoa học là Mageirocophobia (phát âm: ˌmædʒaɪrɪk-a-phô-bi-a) là nỗi sợ hãi đối với việc nấu ăn. Hội chứng này có thể xảy ra dưới nhiều hình thức, mặc
**Hội chứng sợ tình dục** (tiếng Anh: **Genophobia** hoặc **coitophobia**) là nỗi sợ hãi về thể chất hoặc tâm sinh lý của một người liên quan đến việc quan hệ tình dục hay những hoạt
**Hội chứng sợ phụ nữ** (Tiếng Anh: **Gynophobia** hay **gynephobia**) là một hội chứng sợ bất thường về phụ nữ, và là một dạng của hội chứng sợ xã hội. Trong quá khứ, từ tiếng
**Hội chứng sợ những cây cầu**, có tên khoa học là Gephyrophobia, là một loại rối loạn lo âu hoặc ám ảnh cụ thể đặc trưng bởi sự sợ hãi của những cây cầu. Kết
**Hội chứng sợ ánh sáng **là nỗi sợ hãi đối với mặt trời, ánh sáng mặt trời, hay bất kỳ ánh sáng chói lóa nào. Đây là một loại ám ảnh cụ thể. ## Nguyên
**Hội chứng sợ tiếng ồn (phonophobia)**, còn được gọi là **hội chứng sợ tiếng ồn lớn** (ligyrophobia) hoặc **hội chứng sợ tiếng ồn lớn bất thường** (sonophobia), là một nỗi sợ hãi hoặc ác cảm
**Hội chứng sợ nói đứng trước đám đông,** có tên khoa học là **Glossophobia,** là nỗi sợ khi phải nói trước nhiều người. Từ glossophobia xuất phát từ tiếng Hy Lạp γλῶσσα glōssa, có nghĩa
**Hội chứng sợ phải gọi hoặc nói chuyện qua điện thoại **(telephonophobia, telephobia) là một nỗi sợ hãi của việc thực hiện hoặc tham gia các cuộc gọi điện thoại, nghĩa đen là "sợ điện
nhỏ|phải|Mặc dù nhiều loài nhện là vô hại, nhưng một người mắc chứng sợ nhện vẫn có thể hoảng sợ hoặc cảm thấy bất an khi ở gần chúng. Đôi khi, ngay cả một vật
**Aquaphobia** () là một hội chứng sợ nước. Aquaphobia được coi là một chứng sợ hãi cụ thể đối với loại môi trường tự nhiên trong Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn
nhỏ| Các nhà phát minh đã chỉ ra nỗi sợ bị chôn sống của họ. **Hội chứng sợ bị chôn sống** là nỗi sợ bị đặt trong một ngôi mộ trong khi vẫn còn sống
phải|nhỏ|300x300px|Thảm họa đường sắt Versailles — Bellevue năm 1842. Tin tức về các sự kiện như sự kiện này đã góp phần gây lo âu **Hội chứng sợ tàu hoặc đường ray** là sự lo
**Hội chứng sợ thời gian trôi**, có tên khoa học là Chronophobia, là sự lo lắng trong những khoảng thời gian trôi qua. Hội chứng sợ thời gian trôi đặc biệt phổ biến đối với
Trong tâm thần học, **Hội chứng sợ những đồ vật gia dụng và môi trường xung quanh nhà**, có tên khoa học là oikophobia (đồng nghĩa với domatophobia và ecophobia), là một ác cảm với
**Hội chứng sợ bẩn** hay **khiết phích**, **ám ảnh sạch sẽ** (tiếng Anh: mysophobia, verminophobia, germophobia, germaphobia, bacillophobia và bacteriophobia) là một hội chứng sợ ô nhiễm và vi trùng. Thuật ngữ này được William
nhỏ|Các lỗ ở đài sen bị cho là tạo cảm giác ghê sợ cho một số người. Tuy nhiên đây chỉ là mức độ rất nhẹ. **Hội chứng sợ lỗ** (có tên khoa học là
thumb|[[Ngân hàng Norrmalmstorg tại Stockholm, Thụy Điển, nơi đã diễn ra vụ cướp vào năm 1973 (ảnh chụp năm 2005)]] **Hội chứng Stockholm** hay **quan hệ bắt cóc** là thuật ngữ mô tả một loạt
nhỏ|phải|Nhiều người sợ khi trông thấy rắn **Hội chứng sợ rắn** hay **nỗi sợ rắn** (tiếng Anh: ophidiophobia) là một hội chứng tâm lý của con người có đặc trưng là nỗi ám ảnh về
**Hội chứng lo sợ khi không có điện thoại**, có tên khoa học là **Nomophobia**, là tên của một sự ám ảnh liên quan đến việc không có điện thoại di động. Tuy nhiên, có
**Hội chứng sợ các chất hóa học** (tiếng Anh: _chemphobia_ hoặc _chemonoia_), là một sự ác cảm hoặc có những định kiến chống lại các hóa chất hoặc môn hóa học. Hiện tượng này đã
**Hội chứng Tourette** (còn được gọi **Hội chứng Gilles de la Tourette**, viết tắt **GTS** hay **TS**) là hội chứng thần kinh được thừa hưởng bắt đầu xuất hiện khi còn rất trẻ, triệu chứng
**Hội chứng sợ số bốn**, có tên khoa học là Tetraphobia (từ tiếng Hy Lạp τετράς — tetras, "bốn" và φόβος — phobos, "sợ hãi") là nỗi sợ hãi khiến người mắc phải hội chứng
nhỏ|phải|Một con chuột **Hội chứng sợ chuột** hay **nỗi sợ chuột** là một chứng bệnh tâm lý, theo đó người bệnh có cảm giác sợ sệt những con chuột. Hội chứng sợ chuột tên gọi
thumb|Số gian hàng tại [[Santa Anita Park đánh số 12 đến 12A đến 14 mà không có số 13]] **Hội chứng sợ số 13** hay **triskaidekaphobia** (trong tiếng Hy Lạp _tris_ có nghĩa là "3",
**Chứng sợ ánh sáng / photophobia** là một triệu chứng không dung nạp bất thường đối với nhận thức thị giác về ánh sáng. Là một triệu chứng y khoa, chứng sợ ánh sáng không
**Hội chứng Asperger** (tiếng Anh: **Asperger syndrome**, viết tắt là **AS**, hay **Asperger's**) là chứng rối loạn phát triển thần kinh đặc trưng bởi những khó khăn đáng kể trong tương tác xã hội và
**Hội chứng Klinefelter** _(đọc là **Clai-phen-tơ**)_ là tình trạng không phân li nhiễm sắc thể ở nam giới; người bị tác động có một cặp nhiễm sắc thể giới tính X thay vì chỉ có
**Hội chứng ống cổ tay** hay còn gọi là **hội chứng đường hầm cổ tay**, **hội chứng chèn ép thần kinh giữa** (tên khoa học: _Carpal tunnel syndrome_, trong đó _carpal tunnel_ có nghĩa là
**Hội chứng rối loạn chức năng đa cơ quan** (_Multiple Organ Dysfunction Syndrome_: **MODS**) là kết cục không mong muốn của quá trình hồi sức chống sốc không thành công. Chỉ có những bệnh nhân