✨Grande Armée

Grande Armée

Grande Armée (tiếng Pháp có nghĩa là "Đại quân") lần đầu tiên được ghi chép vào biên niên sử vào năm 1804, khi Napoléon Bonaparte, Hoàng đế Pháp, đổi tên đội quân đang đóng tại bờ biển phía bắc nước Pháp, bên eo biển Manche sau khi lên kế hoạch xâm lược Anh Quốc. Tuy nhiên, người Pháp không đạt được mục đích chính từ cuộc xâm lược này, kế hoạch phải hủy bỏ, vì Napoléon đã triển khai quân đội tiến về phía đông để triệt hạ các mối đe dọa là Áo và Nga, là một phần của Liên minh thứ ba chống Pháp.

Sau đó, tên gọi này đã được sử dụng cho quân đội chủ lực Pháp, được triển khai trong những chiến dịch 1805-1807 (nơi mà họ đã lấy được sự uy tín), năm 1812, và 1813-1814. Tuy nhiên, trong thực tế, thuật ngữ "Grande Armée" được sử dụng trong tiếng Anh để đề cập đến tất cả các lực lượng đa quốc gia được thu nạp bởi Napoléon trong các chiến dịch của ông về những năm đầu thế kỷ 19 (xem Chiến tranh Napoléon).

Khi thành lập, Grande Armée bao gồm sáu quân đoàn dưới sự chỉ huy của Thống soái Napoléon và các tướng lĩnh cao cấp. Khi ông phát hiện ra rằng quân đội Nga và Áo đang chuẩn bị xâm lược Pháp vào cuối năm 1805, Grande Armée đã nhanh chóng ra lệnh tiến về phía đông, vượt qua sông Rhine vào miền Nam nước Đức, dẫn đến chiến thắng của Napoleon tại Ulm, Austerlitz, Jena.

Số lượng binh sĩ tăng lên nhanh chóng khi Napoléon hành quân trên khắp châu Âu. Nó đạt đến quy mô tối đa là 600.000 lính vào lúc bắt đầu của cuộc xâm lược của Nga năm 1812. Tất cả các quân đoàn đều nằm dưới sự chỉ huy của tướng Pháp, ngoại trừ một quân đoàn Ba Lan và Áo. Quân đội đa quốc gia khổng lồ hành quân chậm rãi về phía đông. Sau khi chiếm được thành Smolensk và giành chiến thắng trong trận Borodino, Napoléon và một cánh của Grande Armée đã tiến đến Moskva vào ngày 14 tháng 9 năm 1812, tuy nhiên, số quân đã sụt giảm mạnh do số người bị giết và bị thương trong cuộc chiến với quân Nga, cùng với bệnh tật (chủ yếu là sốt phát ban), hay vì quân linh đào ngũ. Quân đội đã dành một tháng ở lại Moskva, nhưng cuối cùng đã buộc phải hành quân trở về phía tây. Bị lạnh, đói và bệnh tật ám ảnh, và liên tục bị sách nhiễu bởi người Cossack và quân đội không chính quy Nga, cuộc rút lui khiến Grande Armée hoàn toàn gần như bị hủy diệt. Chỉ có 120.000 người sống sót rời khỏi nước Nga (không bao gồm những nhóm đào ngũ đầu tiên). Trong số này có hơn 50.000 là người Áo, Phổ và các tiểu quốc Đức khác, 20.000 người Ba Lan và 35.000 người Pháp. Vậy, có nghĩa là 400.000 người đã phải bỏ mạng trong chiến dịch.

Napoléon đã dẫn những tân binh tới trận đánh Liên quốc gia tại Leipzig vào năm 1813, hay trong việc bảo vệ nước Pháp vào năm 1814 và trong trận Waterloo vào năm 1815, nhưng đội quân Pháp của Napoléon đã không bao giờ lấy lại được những ngày khó quên trong tháng 6 năm 1812.

Lịch sử

Để xem lịch sử về quân đội Pháp giai đoạn 1792–1804, trong thời kỳ giao tranh với Liên minh thứ nhất và thứ hai, xem Quân đội Cách mạng Pháp.

1804-1806

Grande Armée ban đầu được hình thành từ L'Armée des Côtes de l'Océan (Binh đoàn Duyên hải) được thành lập tại cảng Boulogne vào năm 1803, được dự định chuẩn bị cho cuộc xâm lược Anh. Sau khi Napoléon Bonaparte đăng quang ngôi Hoàng đế của người Pháp năm 1804, Liên minh lần thứ ba được hình thành chống lại ông và La Grande Armée biến tầm nhìn của mình về phía đông vào năm 1805. Họ rời khỏi Boulogne vào cuối tháng tám và thông qua một cuộc hành quân nhanh lẹ bao vây quân đội Áo của tướng Karl Mack đang bị cô lập tại pháo đài Ulm. Thắng lợi tại chiến dịch Ulm đã khiến 60.000 quân Áo tử trận còn phía Grande Armée chỉ mất 2.000 binh. Pháp đã yêu cầu Áo đầu hàng, nhưng Áo từ chối, họ vẫn duy trì một đội quân trong khu vực này. Chiến tranh còn phải kéo dài thêm một thời gian nữa. Vấn đề được quyết định giải quyết vào người 02 tháng 12 năm 1805 bằng trận đánh tại Austerlitz, nơi mà Grande Armée, với số quân ít hơn đã đánh bại liên quân Nga-Áo do Sa hoàng Aleksandr I dẫn đầu. Chiến thắng vang dội này đã dẫn đến Hiệp ước Pressburg ngày 26 tháng 12 năm 1805 cộng với Thánh chế La Mã giải thể năm sau.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_Grande Armée_** (tiếng Pháp có nghĩa là "Đại quân") lần đầu tiên được ghi chép vào biên niên sử vào năm 1804, khi Napoléon Bonaparte, Hoàng đế Pháp, đổi tên đội quân đang đóng tại
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Quảng trường Charles-de-Gaulle** nằm ở phía tây Bắc thành phố Paris, điểm giao của các quận 8, 16 và 17. Là giao lộ của 12 đại lộ, trong đó có Champs-Élysées, ở giữa quảng trường
:''Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva **Trận Borodino** (, _Borodinskoe srazhenie_; phiên âm: **Bô-rô-đi-nô**); hoặc còn gọi là **Trận Sông Moskva** () giữa quân đội
Khải hoàn môn Carrousel nhìn từ phía [[Viện bảo tàng Louvre|Louvre]] **Khải hoàn môn Carrousel** (tiếng Pháp: _Arc de Triomphe du Carrousel_) là một khải hoàn môn ở Paris. Thuộc quận 1, trung tâm của
nhỏ|Khải hoàn môn Constantine ở Roma **Khải hoàn môn Carrousel** (tiếng Pháp: _Arc de Triomphe du Carrousel_) là một khải hoàn môn ở Paris. Thuộc quận 1, trung tâm của thành phố, vị trí của
**Jean Lannes** (tiếng Việt: **Giăng Lan**) (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1769, mất ngày 31 tháng 5 năm 1809 sau khi bị thương nặng trong Trận Aspern-Essling), _Công tước Montebello_ (_Duc de Montebello_) là
**Trận Berezina** (hay **trận Beresina**) là một trận chiến trong cuộc chiến tranh Pháp-Nga (1812) diễn ra từ ngày 26 đến ngày 29 tháng 11 năm 1812 tại thị trấn Borisov (nay thuộc Belarus) bên
**Khải Hoàn Môn** (có tên khác là **Bắc đẩu Tinh tú Hoàn môn**) (tiếng Pháp: _L’arc de triomphe de l’Étoile_) là một công trình ở Paris, một trong những biểu tượng lịch sử nổi tiếng
nhỏ|Trục lịch sử nhìn dọc từ [[Vườn Tuileries]] **Axe historique** (Trục lịch sử) hay **Voie royale** (Đường hoàng gia) là một trục chính trong quy hoạch thành phố Paris. Bắt đầu từ bức tượng vua
**André Masséna** (tiếng Việt: **Ma-xê-na**), _Công tước Rivoli_ (_Duc de Rivoli_), _Hoàng tử Essling_ (_Prince d'Essling_) (sinh ngày 6 tháng 5 năm 1758, mất ngày 4 tháng 7 năm 1817) là một thống chế của
**Geert Adriaans Boomgaard** (21 tháng 9 năm 1788 - 3 tháng 2 năm 1899), là người đầu tiên trên thế giới được các nhà nhân khẩu học xác nhận là người sống siêu thọ. Tuy
**Jérôme-Napoléon Bonaparte** (Tên khai sinh: Girolamo Buonaparte; 15 tháng 11 năm 1784 - 24 tháng 6 năm 1860) là em trai út của Hoàng đế Napoleon I, được đưa lên làm vua của Vương quốc
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Pháp** (; ), tên chính thức là **Cộng hòa Pháp** ( ) (), là một quốc gia có lãnh thổ chính nằm tại Tây Âu cùng một số vùng và lãnh thổ hải ngoại. Phần
Ngày **14 tháng 9** là ngày thứ 257 (258 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 108 ngày trong năm. ## Sự kiện *81 – Domitianus trở thành hoàng đế của Đế quốc La Mã
**Graz** (; tiếng Slovene: _Gradec_, tiếng Séc: _Štýrský Hradec_) là thành phố thủ phủ của bang Steiermark và là thành phố lớn thứ hai tại Áo chỉ sau Viên. Tính đến ngày 1 tháng 1
**Nicolas Jean de Dieu Soult**, công tước xứ Dalmatia, là nhà chỉ huy trong chiến tranh Napoleon và là một nhà chính trị, được phong thống chế năm 1804- lần phong đầu tiên của Napoleon,
**Louis Nicolas d'Avout**, thường được biết tới với tên **Davout**, được mệnh danh là _Chim đại bàng đầu hói_ (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1770, mất ngày 1 tháng 6 năm 1823), _Công tước
**Michel Ney**, _Công tước xứ Elchingen_ (_duc d'Elchingen_) và _Hoàng tử Moskowa_ (_prince de la Moskowa_) (sinh ngày 10 tháng 1 năm 1769, bị xử bắn ngày 7 tháng 12 năm 1815), thường được gọi
**Joachim Murat** (tiếng Việt: _Muy-ra_) (sinh ngày 25 tháng 3 năm 1767, bị xử bắn ngày 13 tháng 10 năm 1815), tước hiệu _Thân vương đế chế_ (_Prince impérial_), _Đại công tước Berg và Clèves_
**Thiếc** là một nguyên tố hóa học trong Bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học của Mendeleev, có ký hiệu là **Sn** và số nguyên tử là 50. Thiếc có màu ánh bạc, nhiệt
**Đế quốc Nga** () là một quốc gia tồn tại từ năm 1721 đến khi Chính phủ lâm thời lên nắm quyền sau cuộc Cách mạng Tháng Hai năm 1917. Là đế quốc lớn thứ
**Trận Austerlitz** (còn gọi là **Trận Ba Hoàng đế** hay **Trận Tam Hoàng**), là một trong những trận đánh quan trọng và có tính chất quyết định trong chiến tranh Napoléon. Trận đánh xảy ra
**Trận Paris**(hay Trận công phá Paris) diễn ra vào ngày 30-31 tháng 3 năm 1814 giữa Liên minh thứ sáu, bao gồm Nga, Áo, Phổ và Đế quốc Pháp. Sau một ngày giao tranh ở
Theo thống kê, vào năm 1997, thành phố Paris có tất cả 6.088 đường, phố, đại lộ gồm cả công cộng và tư nhân. Trong tiếng Pháp, đường phố nói chung được chia thành nhiều
Lính Mexico phát khẩu trang cho dân trong [[Đại dịch cúm 2009]] **Đại dịch** là bệnh dịch tễ do nhiễm khuẩn, lây lan nhanh, xảy ra đồng thời ở một vùng dân cư rộng lớn.
**_Empire Earth_** viết tắt **_EE_** là một trò chơi máy tính thuộc thể loại chiến lược thời gian thực do hãng Stainless Steel Studios phát triển và Sierra Entertainment phát hành vào ngày 23 tháng
**Cột Vendôme** (tiếng Pháp: _Colonne Vendôme_) là một cây cột tưởng niệm nằm giữa quảng trường cùng tên ở quận 1 thành phố Paris. Công trình được Hoàng đế Napoléon cho xây dựng để kỷ
**Nicolas Chauvin** (phiên âm: **Sô-Vanh),** được cho là sinh ra tại Rochefort, Pháp, vào khoảng năm 1780, là một người lính phục vụ trong quân đội của Đệ Nhất Cộng hòa Pháp và sau đó
**Chiến tranh Bán đảo** (1807-1814) là một cuộc xung đột quân sự giữa đế chế của Napoleon và Bourbon Tây Ban Nha (với Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland liên minh với Vương quốc
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
thumb|Cuộc gặp gỡ của hai vị hoàng đế trong một cái lều dựng trên một chiếc bè ở giữa sông Neman. **Hiệp ước Tilsit** (tiếng Pháp: _Traités de Tilsit_, tiếng Đức: _Friede von Tilsit_, tiếng
thumb| Khẩu hiệu "Honor i Ojczyzna" được thấy trên cờ hiệu quân sự của một đơn vị quân đội Ba Lan trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, Trung đoàn Bộ binh số 37.
**Người Ba Lan ở Pháp** là một trong những cộng đồng người gốc Ba Lan lớn nhất châu Âu. HIện nay có khoảng 1 triệu người gốc Ba Lan đang sống tại Pháp, chủ yếu
**Vương quốc Ý** (, ) là sự thống nhất Ý trước và trong giai đoạn 1805-1814, nằm trong lãnh thổ nước Ý ngày nay, một quốc gia trên lãnh thổ mà không còn tồn tại,
**Guadeloupe** (; ; , /ɡwadlup/) là một quần đảo, Vùng hải ngoại và tỉnh hải ngoại của Pháp ở Vùng Caribe. Nó bao gồm 6 hòn đảo có người ở—Basse-Terre, Grande-Terre, Marie-Galante, La Désirade, và
**Giải thưởng lớn Gobert** (tiếng Pháp: **Grand prix Gobert**) là một giải thưởng hàng năm của Viện hàn lâm Pháp dành cho môn lịch sử. Giải này được thiết lập từ năm 1834 bởi Quỹ
**François Maurice Adrien Marie Mitterrand** (Phát âm tiếng Việt như là phờ-răng-xoa mít-tờ-răng; sinh ngày 16 tháng 10 năm 1916 – mất ngày 8 tháng 1 năm 1996) là Tổng thống Pháp và Đồng hoàng
**Trận Waterloo** (phiên âm tiếng Việt: **Oa-téc-lô**) là trận chiến diễn ra vào ngày Chủ nhật 18 tháng 6 năm 1815, gần Waterloo, thuộc Bỉ. Quân Pháp dưới sự chỉ huy của Hoàng đế Napoleon