✨Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học

Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học

Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học () do Quỹ Nobel quản lý, được trao hàng năm cho những khám phá nổi bật trong lĩnh vực khoa học sự sống và y học. Giải Nobel không phải là một giải duy nhất, mà là năm giải riêng biệt, theo di chúc năm 1895 của Alfred Nobel, được trao "cho những người, trong năm trước đó, đã mang lại lợi ích lớn nhất cho loài người". Giải thưởng Nobel được trao trong các lĩnh vực Vật lý, Hóa học, Sinh lý học hoặc Y học, Văn học, và Hòa bình.

Giải thưởng Nobel được trao hàng năm vào ngày kỷ niệm ngày mất của Alfred Nobel, 10 tháng 12. Tính đến năm 2022, có 114 giải Nobel về Sinh lý học và Y học đã trao cho 226 người, 214 nam và 12 nữ. Giải đầu tiên trao vào năm 1901 cho nhà sinh lý học người Đức, Emil von Behring, vì công trình của ông về liệu pháp huyết thanh và sự phát triển của vắc-xin chống lại bạch hầu. Người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel về Sinh lý và Y học, Gerty Cori, đã nhận giải vào năm 1947 vì vai trò của bà trong việc làm sáng tỏ quá trình chuyển hóa glucose, quan trọng trong nhiều khía cạnh của y học, bao gồm điều trị Bệnh tiểu đường. Giải thưởng Nobel gần đây nhất do Viện Karolinska công bố ngày 3 tháng 10 năm 2022 và trao cho Svante Pääbo người Thụy Điển, vì những khám phá liên quan đến bộ gen của loài người đã tuyệt chủng và sự tiến hóa của loài người.

Giải thưởng bao gồm một huy chương cùng với văn bằng và giấy chứng nhận thưởng tiền mặt. Mặt trước của huy chương hiển thị cùng một mặt cắt của Alfred Nobel được mô tả trên các huy chương Vật lý, Hóa học và Văn học; mặt trái là duy nhất dành cho giải này.

Một số lần trao giải này cũng gây ra sự tranh cãi trong cộng đồng khoa học. Như năm 1949 giải được trao cho António Egas Moniz cho nghiên cứu về phẫu thuật thùy não mặc dù có những biểu tình phản đối. Những tranh cãi khác quay xung quanh sự không đồng tình ai được nhận. Năm 1952 giải trao cho Selman Waksman người đang trong vòng lao lý mặc dù một nửa bằng sáng chế thuộc về người đồng phát hiện với ông Albert Schatz, người đã không được trao giải. Giải thưởng năm 1962 cho James D. Watson, Francis Crick và Maurice Wilkins cho công trình của họ về cấu trúc và tính chất của DNA mặc dù thế giải không công nhận những đóng góp từ những người khác như Oswald Avery và Rosalind Franklin vì đã qua đời trước thời gian đề cử giải. Vì giải Nobel không trao cho người đã qua đời, những ai sống thọ sẽ có cơ hội nhận giải vì nhiều trường hợp người được nhận giải cho nghiên cứu của họ từ 50 năm về trước. Giải cũng chỉ giới hạn trao cho ba người, và từ hơn nửa thế kỷ qua, nhiều công trình khoa học có sự tham gia của nhiều nhà khoa học ở nhiều tổ chức, điều này đã dấy lên những tranh luận về quy tắc số người được nhận giải Nobel nói chung.

Bối cảnh

nhỏ|Nobel quan tâm đến sinh lý học thực nghiệm và thành lập phòng thí nghiệm của riêng ông. Alfred Nobel sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại Stockholm, Thụy Điển, trong một gia đình kỹ sư. Ông là một nhà hóa học, kỹ sư và nhà phát minh, ông đã tích lũy được nhiều tài sản trong suốt cuộc đời, phần lớn là từ 355 phát minh, trong đó thuốc nổ là phát minh nổi tiếng nhất. Ông quan tâm đến sinh lý học thực nghiệm và thành lập phòng thí nghiệm của riêng ông ở Pháp và Ý để tiến hành các thí nghiệm về truyền máu. Để đuổi kịp các phát hiện khoa học, ông đã hào phóng quyên góp cho phòng thí nghiệm của Ivan Pavlov ở Nga và lạc quan về tiến độ đạt được từ những khám phá khoa học được thực hiện trong phòng thí nghiệm.

Năm 1888, Nobel vô cùng ngạc nhiên khi đọc cáo phó của chính mình, có tiêu đề "Kẻ buôn bán cái chết đã chết", trên một tờ báo Pháp. Khi chuyện xảy ra, anh trai của Nobel là Ludvig đã qua đời, nhưng Nobel, không hài lòng với nội dung của cáo phó và lo ngại rằng di sản của ông sẽ phản ánh không tốt về ông, cũng là nguồn cảm hứng để thay đổi di chúc của ông. Trong di chúc cuối cùng, Nobel yêu cầu số tiền của ông phải được sử dụng để tạo ra một loạt giải thưởng cho những người mang lại "lợi ích lớn nhất cho nhân loại" trong lĩnh vực vật lý, hóa học, hòa bình, sinh lý học hoặc y học, và văn học. Mặc dù Nobel đã viết nhiều di chúc trong suốt cuộc đời, nhưng bản cuối cùng được viết hơn một năm trước khi ông qua đời ở tuổi 63. Do có khá nhiều tranh cãi xung quanh di chúc, nó đã không được Quốc hội Na Uy chấp thuận cho đến tận ngày 26 tháng 4 năm 1897.

Các thành viên của Ủy ban Nobel Na Uy sẽ trao giải Giải Hòa bình ngay sau khi di chúc được thông qua. Các tổ chức trao giải theo sau: Học viện Karolinska vào ngày 7 tháng 6, Viện Hàn lâm Thụy Điển vào ngày 9 tháng 6 và Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển vào ngày 11 tháng Sáu. Sau đó, Quỹ Nobel đã đạt được thỏa thuận về hướng dẫn cách thức trao giải Nobel. Năm 1900, Vua Oscar II ban hành quy chế mới cho Quỹ Nobel. Ngày nay, giải được gọi là giải Nobel Y học.

Đề cử và lựa chọn

nhỏ|Huy chương giải Nobel Y học, Thụy Điển, 1945, cho Ngài Alexander Fleming (1881–1955), người đã phát hiện ra Penicillin. Trưng bày tại Bảo tàng Quốc gia Scotland

Điều quan trọng đối với Nobel là giải thưởng được trao cho một "khám phá" và đó là "lợi ích lớn nhất cho nhân loại".Theo quy định của di chúc, chỉ những người được chọn mới đủ điều kiện đề cử cá nhân cho giải thưởng. Những người này bao gồm các thành viên của các học viện trên khắp thế giới, các giáo sư y khoa ở Thụy Điển, Đan Mạch, Na Uy, Iceland và Phần Lan, cũng như các giáo sư của các trường đại học và tổ chức nghiên cứu được lựa chọn ở các quốc gia khác. Những người đoạt giải Nobel trước đây cũng có thể nhận đề cử. Cho đến năm 1977, tất cả các giáo sư của Viện Karolinska cùng nhau quyết định giải Nobel Sinh lý học hoặc Y khoa. Năm đó, những thay đổi trong luật Thụy Điển đã buộc viện phải công khai bất kỳ tài liệu nào liên quan đến Giải thưởng Nobel, và việc thành lập một cơ quan độc lập về mặt pháp lý cho công việc của Giải thưởng được coi là cần thiết. Do đó, thành lập Hội đồng Nobel, bao gồm 50 giáo sư tại Viện Karolinska. Bầu ra Ủy ban Nobel với năm thành viên đánh giá những người được đề cử, Thư ký phụ trách tổ chức và mỗi năm có mười thành viên phụ trợ để hỗ trợ đánh giá các ứng cử viên. Năm 1968, một điều khoản đã được thêm vào là không quá ba người có thể chia sẻ giải thưởng Nobel.

Đúng với nhiệm vụ, ủy ban đã chọn các nhà nghiên cứu làm việc trong lĩnh vực khoa học cơ bản thay vì những người đã có đóng góp trong khoa học ứng dụng. Harvey Cushing, bác sĩ giải phẫu thần kinh người Mỹ, tiên phong trong việc xác định được hội chứng Cushing, đã không được trao giải thưởng, cũng như Sigmund Freud, vì công trình phân tích tâm lý của ông thiếu các giả thuyết có thể thực nghiệm xác nhận. Công chúng kỳ vọng Jonas Salk hoặc Albert Sabin nhận giải thưởng vì đã phát triển vắc-xin bại liệt, nhưng thay vào đó, giải thưởng lại thuộc về John Enders, Thomas Weller, và Frederick Robbins với phát hiện cơ bản rằng vi rút bại liệt có thể sinh sản trong tế bào khỉ, dù các chế phẩm trong phòng thí nghiệm đã giúp tạo ra vắc xin.

Trong suốt thập niên 1930, thường xuyên có những người đoạt giải trong sinh lý học cổ điển, nhưng sau đó, lĩnh vực này bắt đầu phân chia thành các chuyên ngành. Những người đoạt giải sinh lý học cổ điển gần đây nhất là John Eccles, Alan Hodgkin, và Andrew Huxley vào năm 1963 vì những phát hiện của họ về "các sự kiện điện đơn nhất trong hệ thống thần kinh trung ương và ngoại vi."

Người đoạt giải

trái|nhỏ|[[Nikolaas Tinbergen (trái) và Konrad Lorenz (phải) nhận giải (cùng với Karl von Frisch) vì những khám phá liên quan đến hành vi của động vật.]] Năm 1901, nhà sinh lý học người Đức Emil Adolf von Behring là người đầu tiên nhận giải Nobel về Sinh lý học và Y học. Khám phá của Behring về liệu pháp huyết thanh trong quá trình phát triển vắc-xin bạch hầu và uốn ván đã đặt "một vũ khí quan trọng vào tay các y bác sỹ để chiến thắng chống lại bệnh tật và tử vong".

upright|thumb|In 1947, [[Gerty Cori là người phụ nữ đầu tiên nhận Giải thưởng Sinh lý học hoặc Y học.]]

Những người đoạt giải nhận giải Nobel trong nhiều lĩnh vực liên quan đến sinh lý học hoặc y học. , có tám Giải thưởng dành cho những đóng góp trong lĩnh vực truyền tính trạng thông qua G proteins và chất truyền tin thứ hai. Mười ba giải dành cho những đóng góp trong lĩnh vực khoa học thần kinh và mười ba người đã nhận giải cho những đóng góp trong trao đổi chất. Tính đến năm 2009, có hơn 100 giải Nobel về Sinh lý và Y học đã được trao cho 195 cá nhân.

Mười hai phụ nữ đã nhận giải thưởng gồm: Gerty Cori (1947), Rosalyn Yalow (1977), Barbara McClintock (1983), Rita Levi-Montalcini (1986), Gertrude B. Elion (1988), Christiane Nüsslein-Volhard (1995), Linda B. Buck (2004), Françoise Barré-Sinoussi (2008), Elizabeth H. Blackburn (2009), Carol W. Greider (2009), May-Britt Moser (2014) và Youyou Tu (2015). Chỉ có một phụ nữ là Barbara McClintock từng nhận giải thưởng không chia sẻ trong hạng mục này, do công trình khám phá ra gen nhảy di truyền.

Yếu tố thời gian và qua đời

upright|thumb|[[Ralph M. Steinman là người vô tình nhận Giải thưởng sau khi qua đời.]] Do khoảng thời gian có thể trôi qua trước khi tầm quan trọng của khám phá trở nên rõ ràng, một số giải thưởng được trao nhiều năm sau khám phá ban đầu. Barbara McClintock đã thực hiện những công trình vào năm 1944, trước khi cấu trúc của phân tử DNA được biết đến; bà đã không nhận giải cho đến tận năm 1983. Tương tự như vậy, vào năm 1916 Peyton Rous đã phát hiện ra vai trò của virus khối u ở gà, nhưng mãi đến 50 năm sau, vào năm 1966, bà mới nhận giải.

Năm 2011, nhà miễn dịch học người Canada Ralph M. Steinman thắng giải; tuy nhiên, ủy ban không biết rằng ông đã qua đời ba ngày trước khi thông báo. Ủy ban đã quyết định vì giải thưởng được trao "với thiện chí" nên vẫn công nhận giải.

Tranh cãi

Giải thưởng năm 2008 được trao cho Harald zur Hausen để ghi nhận khám phá của ông về virus u nhú ở người (HPV) có thể gây ra ung thư cổ tử cung, Françoise Barré-Sinoussi và Luc Montagnier vì đã phát hiện ra virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV). Nhưng dù Robert Gallo hay Luc Montagnier xứng đáng được ghi nhận nhiều hơn cho việc phát hiện ra virus gây bệnh AIDS hay không vẫn là vấn đề gây ra tranh cãi đáng kể. Đúng như vậy, Gallo đã bị loại và không nhận giải thưởng. Ngoài ra, đã có một vụ bê bối khi Harald zur Hausen đang bị điều tra vì hưởng lợi ích tài chính đối với vắc-xin ung thư cổ tử cung mà vi-rút HPV có thể gây ra. AstraZeneca, công ty có cổ phần trong hai loại vắc-xin HPV béo bở có thể hưởng lợi về mặt tài chính từ giải thưởng, đã đồng ý tài trợ cho Nobel Media và Nobel Web. Theo Times Online, hai nhân vật cấp cao trong quá trình tuyển chọn đã chọn Hausen cũng có mối liên hệ chặt chẽ với AstraZeneca.

Giới hạn số lượng người nhận giải

Điều khoản đưa ra vào năm 1968 về giới hạn số lượng người nhận đề cử tối đa là ba người cho bất kỳ giải thưởng nào đã gây ra nhiều tranh cãi. Từ thập niên 1950 trở lại đây, xu hướng trao giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học cho nhiều người ngày càng gia tăng. Có 59 người nhận giải trong 50 năm đầu tiên của thế kỷ trước, trong khi 113 cá nhân nhận giải từ năm 1951 đến năm 2000. Sự gia tăng này có thể là do sự gia tăng của cộng đồng khoa học quốc tế sau Thế chiến thứ hai, dẫn đến nhiều người chịu trách nhiệm cho việc khám phá và nhận đề cử cho một giải thưởng cụ thể. Ngoài ra, nghiên cứu y sinh hiện nay thường được do các nhóm thực hiện hơn là các nhà khoa học làm việc một mình, khiến cho không có khả năng bất kỳ nhà khoa học nào, hoặc thậm chí một số ít, chịu trách nhiệm chính cho một khám phá; điều này có có nghĩa là một đề cử giải thưởng phải bao gồm nhiều hơn ba người đóng góp sẽ tự động bị loại khỏi quá trình xem xét. Ngoài ra, những người đóng góp hoàn toàn xứng đáng có thể không nhận đề cử vì hạn chế dẫn đến việc giới hạn chỉ ba người được đề cử cho mỗi giải thưởng, dẫn đến việc loại trừ gây tranh cãi.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Một số đặc điểm của đồng hồ sinh học con người (24 giờ) **Nhịp điệu sinh học hằng ngày** () là bất kỳ quy trình sinh học nào hiển thị một dao động nội sinh,
thumb|right |Vi khuẩn than trong cơ thể của một con [[khỉ]] nhỏ|Một con ngựa vằn bị chết sau khi nhiễm _Bacillus anthracis_ (vi khuẩn gây bệnh than) nhỏ|Một biểu hiện xung quanh vết thương của
**Chụp cắt lớp vi tính** (thường được viết tắt là **chụp CT**; trước đây được gọi là **chụp cắt lớp trục vi tính** hoặc** quét CAT**) là một kỹ thuật hình ảnh dùng trong y
**Ngũ Liên Đức** (sinh năm 1879- mất năm 1960) là bác sĩ, nhà khoa học y tế cộng đồng người Malaysia gốc Hoa, người tiên phong trong kiểm dịch và phòng chống dịch hạch, xây
**Hệ khứu giác** là cơ quan của động vật có vú cảm nhận được sự hiện diện của chất bay hơi trong không khí bằng việc hình thành một cảm giác cụ thể (_mùi_), phân
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 * 2 tháng 1: Phát xít Nhật công chiếm Cẩm Châu. * 12 tháng 1: Phát xít Nhật đổ bộ lên Thanh Đảo * 28 tháng 1: Phát
Ngày **18 tháng 8** là ngày thứ 230 (231 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 135 ngày trong năm. ## Sự kiện *1868 – Bằng chứng đầu tiên của nguyên tố Heli được nhà
thumb|upright=1.5|Bức tranh sơn dầu miêu tả [[Claude Bernard, vị cha đẻ của sinh lý học hiện đại, bên cạnh các học trò của mình.]] **Sinh lý học** (, ; ) là một bộ môn khoa
**Michael Houghton** là một nhà khoa học người Anh. Ông nhận bằng Tiến sĩ năm 1977 tại King's College London. Ông đã cùng với Qui-Lim Choo, George Kuo và Daniel W. Bradley đồng phát hiện
**Giải Wiley** tên đầy đủ là **Giải Wiley về Y sinh học** (tiếng Anh: _Wiley Prize in Biomedical Sciences_) là một giải thưởng hàng năm của Quỹ Wiley dành cho những công trình nghiên cứu
**Giải Louisa Gross Horwitz** (tiếng Anh: _Louisa Gross Horwitz Prize_) là một giải thưởng khoa học được Đại học Columbia (Hoa Kỳ) trao hàng năm cho một người hoặc một nhóm người nghiên cứu có
**Khoa học thể thao** là một bộ môn nghiên cứu sự hoạt động của cơ thể người khỏe mạnh khi vận động, và tác dụng nâng cao sức khỏe của thể thao và hoạt động
thumb|National Donor Monument, [[Naarden, Hà Lan]] **Hiến tạng** là khi một người cho phép một cơ quan của họ được cho tặng, một cách hợp pháp, hoặc bằng sự đồng ý trong khi người cho
**Ức chế miễn dịch** là giảm kích hoạt hoặc hiệu quả của hệ thống miễn dịch. Một số phần của chính hệ thống miễn dịch có tác dụng ức chế miễn dịch đối với các
thumb|upright|[[Wilhelm Röntgen (1845–1923), người đầu tiên nhận giải Nobel Vật lý.]] Mặt sau huy chương giải Nobel vật lý **Giải Nobel Vật lý** là giải thưởng hàng năm do Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng
thumb|Các bức ảnh tự cho là mô tả [[ma quỷ và các linh hồn đã từng phổ biến trong suốt thế kỷ XIX.]] **Siêu tâm lý học** (tiếng Anh: _parapsychology_) hay còn gọi là **cận
**Đại học Göttingen**, tên chính thức là **Đại học Georg August Göttingen** () thường được gọi **Georgia Augusta**, là một viện đại học nghiên cứu công lập tại Göttingen, Đức. Được Quốc vương Anh kiêm
**Đại học Osaka** , thường được gọi tắt là , là một đại học quốc gia của Nhật Bản có các trụ sở tại Suita, Toyonaka, và Minoh, Osaka. Đây là trường đại học cổ
**Miễn dịch học** là một phân ngành của sinh học và y học chuyên nghiên cứu về hệ miễn dịch ở mọi sinh vật. Miễn dịch học lập biểu đồ, đánh giá và chuyên môn
**Viện Đại học McGill** hay **Đại học McGill** (tiếng anhː _McGill University_) là viện đại học công lập tọa lạc tại Montreal, Québec, Canada. Trường được thành lập năm 1821 theo Hiến chương Hoàng gia
nhỏ|404x404px|Khái quát chung về operon _lac_ **Operon _lac**_ là một loại operon ở vi khuẩn _Escherichia coli_ và nhiều vi khuẩn đường ruột khác, tham gia vào quá trình dị hóa đường lactose (một loại
**Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học** () do Quỹ Nobel quản lý, được trao hàng năm cho những khám phá nổi bật trong lĩnh vực khoa học sự sống và y học. Giải
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học** (Tiếng Thụy Điển: _Nobelpriset i fysiologi eller medicin_) là một giải thưởng thường niên của Viện Caroline (_Karolinska Institutet_). Đây là một trong năm giải Nobel do
**Barbara McClintock** (16 tháng 6 năm 1902 – 2 tháng 9 năm 1992) là một nhà khoa học và di truyền học tế bào người Mỹ được trao Giải Nobel Sinh lý học và Y
**Giải Passano** là một giải thưởng khoa học của Quỹ Passano dành cho những nhà nghiên cứu Hoa Kỳ có công trình nghiên cứu xuất sắc trong lãnh vực Y học. Giải này đặt theo
**Đại học Leeds** là một viện đại học ở Leeds, Tây Yorkshire, Anh, thành lập vào năm 1831. Ban đầu nó có tên là Cao đẳng Khoa học Yorkshire và sau đó là Cao đẳng
**Giải thưởng Nobel**, hay **Giải Nobel** (, , ), là một tập các giải thưởng quốc tế được tổ chức trao thưởng hằng năm kể từ năm 1901 cho những cá nhân đạt thành tựu
**Viện Hàn lâm Giáo hoàng về Khoa học** (tiếng Ý: _Pontificia accademia delle scienze_, tiếng Latin: _Pontificia Academia Scientiarum_) là viện hàn lâm khoa học của Tòa Thánh Vatican, được giáo hoàng Piô XI thành
nhỏ|Người đoạt giải Nobel được nhận một huy chương vàng cùng một bằng chứng nhận và 11 triệu [[Krona Thụy Điển|krona (tính đến năm 2023, tương đương 1 triệu USD).]] nhỏ|Những người đoạt giải Nobel
Huy chương Giải Nobel **Giải Nobel Hòa bình** là một trong năm Giải Nobel được thành lập theo di chỉ của nhà công nghiệp, nhà phát minh và nhà sản xuất quân trang (vũ khí
**Đại học Manchester** là một trường đại học nghiên cứu công lập tại Manchester, Anh. Cơ sở chính nằm ở phía nam Trung tâm Thành phố Manchester trên Đường Oxford. Trường đại học sở hữu
**Đại học Columbia**, tên chính thức là **Đại học Columbia ở Thành phố New York** () là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở quận Manhattan, Thành phố New York, Hoa Kỳ. Một
**Giải Balzan** gồm 4 giải thưởng do _Quỹ giải Balzan quốc tế_ trao hàng năm cho những người hoặc tổ chức có những đóng góp xuất sắc trong các lãnh vực nhân đạo, khoa học
**Đại học Vật lý Kỹ thuật Moskva (MIPT,** tiếng Nga: Московский Физико-Технический институт), còn được biết đến với tên gọi **Phystech** - là trường đại học hàng đầu của Nga, chuyên đào tạo các chuyên
Đây là danh sách các nhà phát minh và các nhà khám phá Ý: ## A * Giovanni Agusta (1879–1927), nhà hàng không tiên phong, nhà phát minh phanh dù * Giovanni Battista Amici (1786–1863),
nhỏ| Giải Ig Nobel Vật lý năm 2000 được trao cho [[Andrei Konstantinovich Geim|Andre Geim (Đại học Radboud Nijmegen) và Michael Berry (Đại học Bristol, Vương quốc Anh) vì làm một con ếch sống bay
**Đại học George Mason** (tiếng Anh: _George Mason University_; gọi tắt: _Mason_ hoặc _GMU_) là một trường đại học nghiên cứu công lập nằm tại quận Fairfax, bang Virginia, Hoa Kỳ. Trường nằm ở phía
**Giải Charles Léopold Mayer** (tiếng Pháp: **Prix Charles-Léopold Mayer**) là một giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp thuộc Institut de France. Giải được đặt theo tên nhà khoa học Pháp gốc Ireland
**Trường phái kinh tế học Chicago** (tiếng Anh: **Chicago School of economics**) là một trường phái tư tưởng kinh tế học tân cổ điển gắn liền với công việc của giảng viên tại Đại học
**Lý thuyết trò chơi**, hoặc gọi **đối sách luận**, **lí luận ván cờ**, là một phân nhánh mới của toán học hiện đại, cũng là một môn học trọng yếu của vận trù học, tác
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
**Đại học Paris-Sud** () hoặc **Đại học Paris XI** là một trường đại học nghiên cứu công lập cũ ở Paris, Pháp, hoạt động từ năm 1971 đến năm 2019. Trường đại học này có
**Giải thưởng Nobel**, hay **Giải Nobel** Thụy Điển, số ít: _Nobelpriset_, Na Uy: _Nobelprisen_), là một tập các giải thưởng quốc tế được tổ chức trao thưởng hằng năm kể từ năm 1901 cho những
thumb|Van't Hoff (1852-1911) là người đầu tiên nhận giải Nobel Hóa học, đã khám phá ra các định luật động lực học hóa học và áp suất thẩm thấu trong các dung dịch. **Giải Nobel
**Katalin Karikó** trong tiếng Hungary có tên **_Karikó Katalin_** (phát âm tiếng Hungary: [ˈkɒrikoː ˌkɒtɒlin]) là nữ giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành hóa sinh và sinh học phân tử, người Mỹ gốc Hungary, nổi
**Đại học Paris-Saclay** () là một viện nghiên cứu công nghệ kết hợp và trường đại học công lập tại Paris, Pháp. Đại học Paris-Saclay được thành lập vào năm 2019 sau việc sáp nhập
**Viện Đại học Yale** (tiếng Anh: _Yale University_), còn gọi là **Đại học Yale**, là viện đại học tư thục ở New Haven, Connecticut. Thành lập năm 1701 ở Khu định cư Connecticut, Yale là
**Kháng sinh** là một loại chất kháng khuẩn hoạt động chống lại vi khuẩn và là loại chất kháng khuẩn quan trọng nhất dùng trong đối phó nhiễm khuẩn. Các thuốc kháng sinh được sử
nhỏ|Năm 1605, Oxford vẫn là một thành phố có tường bao quanh, nhưng một số trường cao đẳng đã được xây dựng bên ngoài tường thành (phía bắc nằm ở cuối bản đồ này). **Viện