✨Siêu tâm lý học

Siêu tâm lý học

thumb|Các bức ảnh tự cho là mô tả [[ma quỷ và các linh hồn đã từng phổ biến trong suốt thế kỷ XIX.]] Siêu tâm lý học (tiếng Anh: parapsychology) hay còn gọi là cận tâm lý học hay tâm linh học là lĩnh vực chuyên nghiên cứu về các hiện tượng siêu linh và tâm linh như thần giao cách cảm, linh cảm, nhãn thông, psychokinesis, trải nghiệm cận tử, sự đầu thai, trải nghiệm apparition và các điều dị thường khác. Phần lớn các nhà khoa học chính thống đều coi siêu tâm lý học là ngụy khoa học.<!-- <!-- Siêu tâm lý học đang bị chỉ trích vì tiếp tục các nghiên cứu mặc dù không thể cung cấp bằng chứng thuyết phục cho sự tồn tại của bất cứ hiện tượng tâm linh nào sau hơn một thế kỉ nghiên cứu.

Lưu ý rằng các nhà khoa học không xem các tuyên bố của lĩnh vực siêu tâm lý học là nghiêm túc.

Thuật ngữ học

Para có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nghĩa là "bên cạnh, có liên quan mật thiết đến, trên..." Thuật ngữ parapsychology được đặt ra vào khoảng năm 1889 bởi triết gia Max Dessoir. Sau đó J. B. Rhine đã dùng nó vào thập niên 1930 thay cho thuật ngữ psychical research (nghiên cứu tâm linh) nhằm chỉ bước chuyển quan trọng hướng đến phương pháp học thực nghiệm và chuyên ngành khoa học. Thuật ngữ bắt nguồn từ có nghĩa là "bên cạnh", và psychology (tâm lý học).

Trong từ parapsychology, psi là yếu tố không được biết đến trong ngoại cảm và các trải nghiệm psychokinesis không giải thích được bằng các cơ chế sinh học và vật lý đã biết. Thuật ngữ bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ψ psi, kí tự thứ 23 của bảng chữ cái Hy Lạp và là chữ cái khởi đầu của từ ψυχή trong tiếng Hy Lạp psyche, có nghĩa là "tâm, linh hồn". Thuật ngữ được nhà sinh vật học Berthold P. Wiesner sử dụng, và lần đầu tiên được nhà tâm lý học Robert Thouless sử dụng trong một bài báo xuất bản vào năm 1942 ở tạp chí British Journal of Psychology.

Hiệp hội Parapsychological Association chia psi thành hai thể loại chính: psi-gamma dành cho ngoại cảm và psi-kappa dành cho psychokinesis. Các nhà nghiên cứu khác như Frank Podmore đã nhấn mạnh các sai sót trong các thí nghiệm này, như việc thiếu kiểm soát nhằm tránh gian lận. Agenor de Gasparin đã thực hiện các thí nghiệm sơ khai về xoay bàn (table-tipping). Năm 1853, trong khoảng thời gian năm tháng, ông đã tuyên bố các thí nghiệm thành công là kết quả của một "ectenic force" (sức mạnh siêu nhiên, điều khiển vật di chuyển bằng ý nghĩ). Các nhà phê bình đã lưu ý rằng các điều kiện không đủ để ngăn gian lận. Ví dụ, đầu gối của những người ngồi quanh bàn có thể được dùng để dịch chuyển cái bàn và không có người làm thí nghiệm nào đồng thời quan sát bên trên và bên dưới bàn.

Nhà vật lý thiên văn người Đức Johann Karl Friedrich Zöllner đã kiểm tra medium Henry Slade vào năm 1877. Theo Zöllner thì một số thí nghiệm đã thành công. Tuy nhiên, sau đó các sai sót trong các thí nghiệm này đã được phát hiện và các nhà phê bình đã cho rằng Slade là một kẻ lừa đảo và hắn đã thực hiện trò gian lận trong các thí nghiệm.

Society for Psychical Research (SPR, Hội nghiên cứu tâm linh) được thành lập vào năm 1882 ở Luân Đôn. Sự thành lập của hội này là cố gắng đầu tiên có tính hệ thống nhằm tổ chức các nhà khoa học và các học giả đầu tư nghiên cứu các hiện tượng dị thường. Các thành viên ban đầu bao gồm các nhà triết học, các học giả, các nhà khoa học, các nhà giáo dục và các chính trị gia, như Henry Sidgwick, Arthur Balfour, William Crookes, Rufus Osgood Mason và người được giải Nobel Charles Richet (Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1913). Các chủ tịch của hội này, ngoài Richet, còn có Eleanor Sidgwick, William James, và sau này là những người được giải Nobel là Henri Bergson (Nobel Văn học năm 1927) và Lord Rayleigh (Nobel Vật lý năm 1904), và nhà triết học C. D. Broad.

Các lĩnh vực nghiên cứu bao gồm thần giao cách cảm, thôi miên, hiện tượng của Reichenbach, trải nghiệm apparition, hauntings, và các khía cạnh vật lí của spiritualism như table-tilting, materialization và apportation. Vào thập nhiên 1880 Hiệp hội này đã nghiên cứu các trải nghiệm apparition và ảo giác. Một trong những công trình quan trọng đầu tiên là ấn phẩm hai tập xuất bản vào năm 1886, Phantasms of the Living (Ảo tưởng của cơ thể), tác phẩm này nhận được phê bình rộng rãi từ các học giả. Vào năm 1894, Census of Hallucinations (Tổng điều tra về ảo giác) được xuất bản, tác phẩm này đã lấy mẫu điều tra 17, 000 người. Trong số này, 1, 684 người thừa nhận rằng đã trải qua hallucination (ảo giác) của một apparition. SPR đã trở thành mô hình cho các hội tương tự ở các nước châu Âu và Hoa Kỳ suốt nửa sau thế kỷ XIX.

Các trải nghiệm nhãn thông ban đầu đã được Charles Richet báo cáo vào năm 1884. Các quân bài được niêm kín trong bao thư và một người (chủ thể nghiên cứu) ở trạng thái bị thôi miên cố gắng xác định chúng. Báo cáo cho rằng chủ thể đã thành công trong một loạt 133 lần thử nhưng kết quả rơi vào mức ngẫu nhiên khi biểu diễn trước một nhóm các nhà khoa học ở Cambridge. J. M. Peirce và E. C. Pickering đã báo cáo rằng một thí nghiệm tương tự trong đó họ đã kiểm tra 36 chủ thể trên 23,384 lần thử đã không đạt được các điểm số ngẫu nhiên ở trên.

Vào năm 1881, Eleanor Sidgwick đã tiết lộ phương pháp gian lận trong đó các các nhiếp ảnh gia tâm linh như Édouard Isidore Buguet, Frederic Hudson và William H. Mumler từng sử dụng. Suốt thời gian cuối thế kỷ XIX các nhà nghiên cứu thuộc Hiệp hội SPR đã phát hiện ra nhiều medium gian lận.

Nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của nhà tâm lý học William James, American Society for Psychical Research (ASPR, Hiệp hội Nghiên cứu Tâm linh Hoa Kỳ) đã mở cửa ở Boston vào năm 1885, chuyển đến New York City vào năm 1905 dưới sự lãnh đạo của James H. Hyslop. Các nghiên cứu nổi bật do Walter Franklin Prince của ASPR thực hiện vào đầu thế kỷ XX gồm có Pierre L. O. A. Keeler, Great Amherst Mystery và Patience Worth.

Thời đại Rhine

Vào năm 1911, Đại học Stanford trở thành cơ sở hàn lâm đầu tiên ở Hoa Kỳ nghiên cứu về extrasensory perception (ESP, ngoại cảm) và psychokinesis (PK) trong phòng thí nghiệm. Cố gắng này do nhà tâm lí học John Edgar Coover dẫn đầu, và được hỗ trợ tài chính bởi một quỹ do Thomas Welton Stanford, anh/em trai của người sáng lập đại học này đóng góp. Sau khi thực hiện gần 10,000 thí nghiệm, Coover đã kết luận rằng "việc xem xét dữ liệu thống kê đã thất bại trong việc phát hiện bất cứ nguyên nhân nào khác ngoài sự tình cờ may rủi."

Vào năm 1930, Duke University trở thành đại học lớn thứ hai trong số các cơ sở hàn lâm Hoa Kỳ đầu tư nghiên cứu mạnh về ESP và psychokinesis trong phòng thí nghiệm. Dưới sự hướng dẫn của nhà tâm lí học William McDougall và sự giúp đỡ của các nhà tâm lí học khác trong khoa — gồm Karl Zener, Joseph B. Rhine, và Louisa E. Rhine — các thí nghiệm ESP đã bắt đầu được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Các thí nghiệm này sử dụng các chủ thể nghiên cứu tình nguyện là cơ thể các sinh viên đại học. Trái ngược với cách tiếp cận của nghiên cứu tâm linh (psychical research) nói chung là tìm kiếm bằng chứng định tính cho các hiện tượng siêu nhiên, các thí nghiệm ở đại học Duke University sử dụng cách tiếp cận định lượng, thống kê, sử dụng các tấm card Zener và xúc xắc. Hệ quả của các nghiên cứu ESP ở đại học Duke là các thủ tục tiêu chuẩn trong phòng thí nghiệm dành cho việc kiểm tra ESP đã được phát triển và sử dụng bởi các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới.

Một parapsychologist và medium người Ireland tên là Eileen J. Garrett đã được Rhine kiểm tra tại Đại học Duke vào năm 1933 với các tấm card Zener. Một số kí hiệu đặt trên các tấm card và được niêm phong trong một phong bì, và Garrett được yêu cầu đoán những gì có ở bên trong. Garrett đã thể hiện không tốt. Về sau, bà chỉ trích các bài kiểm tra với cáo buộc các tấm card thiếu một thứ năng lượng tâm linh gọi là "kích thích năng lượng" nên bà đã không thể hiện được khả năng nhãn thông của mình. Tháng 5 năm 1937, parapsychologist Samuel Soal và các cộng sự đã tiến hành kiểm tra Garrett. Hầu hết các thí nghiệm đều được tiến hành ở phòng thí nghiệm Psychological Laboratory ở Đại học University College London. Tổng cộng hơn 12,000 dự đoán đã được ghi lại nhưng Garrett đã thất bại trong việc tạo ra dự đoán ở trên mức ngẫu nhiên. Trong báo cáo của mình Soal viết "Trong trường hợp của bà Eileen Garrett chúng tôi thất bại trong việc tìm ra một xác nhận dù không chắc chắn nhất cho các tuyên bố đáng chú ý của Tiến sĩ J. B. Rhine liên quan đến các năng lực về ngoại cảm của bà ấy. Không những bà ấy thất bại khi tôi phụ trách thí nghiệm, mà bà ấy còn thất bại ngay cả khi bốn người đã được huấn luyện kĩ càng khác thay thế vị trí của tôi."

Các thí nghiệm ở đại học Duke đã khơi dậy làn sóng chỉ trích từ các học giả và những ai thách thức các khái niệm và bằng chứng của ESP. Nhiều khoa tâm lí học đã cố gắng lặp lại các thí nghiệm của Rhine nhưng thất bại. W. S. Cox (1936) từ Princeton University cùng với 132 chủ thể đã thực hiện 25,064 lần thử trong thí nghiệm ESP với các quân bài. Cox kết luận "Không có bằng chứng nào về ngoại cảm có trong 'một người bình thường' hoặc một nhóm được khảo sát hay trong bất cứ cá nhân nào của nhóm ấy. Sự khác biệt giữa kết quả này và kết quả mà Rhine đạt được là do các nhân tố không thể kiểm soát được trong thủ tục thí nghiệm hoặc do sự khác nhau của các chủ thể." Bốn khoa tâm lí học khác cũng thất bại trong việc tái tạo các kết quả của Rhine. James Charles Crumbaugh đã thất bại trong việc lặp lại các kết quả của Rhine sau hàng ngàn lượt thí nghiệm với các tấm card.

thumb|[[Hubert Pearce và J. B. Rhine]]

Vào năm 1938, nhà tâm lí học Joseph Jastrow đã viết rằng nhiều bằng chứng ngoại cảm do Rhine và các parapsychologist khác thu thập được là giai thoại, thiên vị, mơ hồ và kết quả của "việc quan sát có sai lầm và sự yếu đuối quen thuộc của con người". Các thí nghiệm của Rhine đã đánh mất độ tin cậy do người ta đã khám phá ra sensory leakage (sự rò rỉ giác quan) hoặc việc gian lận có thể được kể đến trong tất cả các kết quả của ông ta, ví dụ như các chủ thể có thể đọc được kí hiệu từ mặt sau của các tấm card, họ cũng có thể xem và nghe thấy người thực hiện thí nghiệm và lưu ý những manh mối nhỏ nhất.

Nhà ảo thuật Milbourne Christopher nhiều năm sau đó đã viết rằng ông cảm thấy "có ít nhất hàng chục cách để một chủ thể có thể đánh lừa người điều tra nếu họ muốn gian lận trong các điều kiện mà Rhine đã mô tả". Khi Rhine thận trọng phản ứng lại sự chỉ trích về các phương pháp của mình, ông ta đã không thể tìm thấy bất cứ chủ thể nào có điểm số cao. Chỉ trích khác do nhà hóa học Irving Langmuir nêu ra cho rằng có việc báo cáo chọn lọc. Langmuir đã nói rằng Rhine đã không báo cáo điểm số của các chủ thể mà ông đã nghi ngờ là một sai lầm dự đoán cố ý, và do đó, ông cảm thấy các kết quả thống kê bị thiên vị cao hơn nhiều kết quả vốn có.

Rhine và các cộng sự của mình đã cố gắng giải quyết những chỉ trích này qua các thí nghiệm mới được mô tả trong cuốn sách Extrasensory Perception After Sixty Years (Ngoại cảm sau 60 năm) xuất bản vào năm 1940. Rhine đã mô tả ba thí nghiệm: thí nghiệm Pearce-Pratt, thí nghiệm Pratt-Woodruff và seri Ownbey-Zirkle mà ông tin là chứng minh cho ESP. Tuy nhiên, C. E. M. Hansel viết "bây giờ thì mọi người đã biết rằng mỗi thí nghiệm đều có các sai sót nghiêm trọng do các tác giả cuốn Extra-Sensory Perception After Sixty Years" gây ra để tránh gây chú ý trong việc kiểm tra.

Vào năm 1957, Rhine và Joseph Gaither Pratt viết Parapsychology: Frontier Science of the Mind (Parapsychology: Khoa học Ranh giới của Tâm trí). Do phương pháp luận có vấn đề nên các parapsychologist không còn sử dụng các nghiên cứu bằng cách đoán các tấm card nữa. Các thí nghiệm của Rhine về psychokinesis (PK) cũng bị chỉ trích. John Sladek viết:

Nghiên cứu của ông ta sử dụng xúc xắc, và các chủ thể 'muốn" chúng rơi theo một cách nhất định nào đó. Xúc xắc không chỉ bị khoan, cạo, đánh số và thao tác sai, mà ngay cả xúc xắc thật cũng thường cho thấy sự thiên lệch sau một thời gian dài thử nghiệm. Các sòng bạc thường loại bỏ xúc xắc thường xuyên vì lí do này, nhưng tại đại học Duke, các chủ thể tiếp tục thử cùng hiệu ứng trên cùng xúc xắc trong suốt thời gian dài thí nghiệm. Không ngạc nhiên chút nào, PK chỉ xuất hiện ở Duke và không xuất hiện ở nơi nào khác nữa.

thumb|Ông Zirkle và cô Ownbey

Thí nghiệm ESP Ownbey-Zirkle tại đại học Duke bị các parapsychologist và những người hoài nghi chỉ trích. Cô Ownbey cố gắng gửi các kí hiệu ESP đến ông Zirkle để Zirkle đoán xem chúng là gì. Hai người ở trong hai phòng cạnh nhau và không thể nhìn thấy nhau và một cái quạt điện được dùng để ngăn cản cặp đôi giao tiếp với nhau bằng các ám hiệu giác quan. Ownbey gõ một phím điện báo (telegraph) đến Zirkle để báo cho ông ta biết khi cô đang cố gắng gửi cho anh ta một kí hiệu. Cánh cửa chính chia cách hai phòng được mở trong khi làm thí nghiệm, và sau mỗi lần đoán Zirkle sẽ nói to dự đoán của mình cho Ownbey để Ownbey ghi lại lựa chọn của Zirkle. Những người chỉ trích đã chỉ ra rằng thí nghiệm này có thiếu sót vì Ownbey vừa đóng vai người gửi vừa đóng vai người thực hiện thí nghiệm, không có ai kiểm soát thí nghiệm nên Ownbey có thể gian lận bằng cách giao tiếp với Zirkle hoặc ghi chép sai.

Thí nghiệm thần giao cách cảm ở khoảng cách xa Turner-Ownbey bị phát hiện là có thiếu sót. May Frances Turner ngồi ở phòng thí nghiệm Parapsychology Laboratory ở Duke trong khi Sara Ownbey tuyên bố nhận tin phát cách đó 250 dặm. Trong thí nghiệm này Turner sẽ nghĩ về một kí hiệu và viết nó ra giấy, trong khi đó cô Ownbey sẽ viết ra dự đoán của mình.

Một thí nghiệm ESP nổi tiếng tại Duke University đã từng được thực hiện bởi Lucien Warner và Mildred Raible. Chủ thể bị khóa trong một căn phòng với một công tắc điều khiển ánh sáng tín hiệu ở nơi khác mà cô ta có thể đánh tín hiệu để đoán tấm card. Mười lượt thử với các chồng card ESP đã được sử dụng và cô ta đã giành được 93 hit (cao hơn mức ngẫu nhiên 43). Điểm yếu trong thí nghiệm này đã bị phát hiện sau đó. Thời gian tín hiệu ánh sáng có thể thay đổi nên chủ thể có thể đã gọi các kí hiệu đặc biệt và các kí hiệu nhất định nào đó trong thí nghiệm lên thường xuyên hơn các kí hiệu khác, việc này cho thấy việc xáo trộn hay thao tác các tấm card quá đơn giản. Thí nghiệm này đã không được lặp lại.

Quản trị của đại học Duke ít thiện cảm với parapsychology, và sau khi Rhine nghỉ hưu vào năm 1965 các liên kết parapsychology với đại học này cũng bị phá vỡ. Rhine sau này thành lập Foundation for Research on the Nature of Man (FRNM, Quỹ Nghiên cứu Bản chất của con người) và Institute for Parapsychology (Viện Parapsychology) như là hậu thân của phòng thí nghiệm ở đại học Duke.

Thành lập Hiệp hội Parapsychological Association

Hiệp hội Parapsychological Association (PA, Hiệp hội Parapsychology) được thành lập ở Durham, North Carolina, vào ngày 19 tháng 6 năm 1957. Sự hình thành của hiệp hội này do J. B. Rhine đề xướng tại một hội thảo về parapsychology tổ chức ở phòng thí nghiệm Parapsychology Laboratory của Đại học Duke. Rhine đề nghị nhóm tự chuyển thành hạt nhân của hội chuyên nghiệp quốc tế về parapsychology. Mục tiêu của tổ chức theo Hiến chương của nó là "phát huy parapsychology như một ngành khoa học, phổ biến kiến thức chuyên ngành, và tích hợp các phát hiện với các chuyên ngành khoa học khác".

Vào năm 1969, dưới sự định hướng của nhà nhân chủng học (anthropologist) Margaret Mead, Parapsychological Association liên kết với American Association for the Advancement of Science (AAAS, Hiệp hội Hoa Kỳ dành cho Sự tiến bộ của Khoa học), hội khoa học lớn nhất thế giới. Vào năm 1979, nhà vật lí học John A. Wheeler nói rằng parapsychology là ngụy khoa học, và sự liên kết của Parapsychological Association với AAAS cần được xem xét lại.

Tuy nhiên, sự thách thức của ông ấy đối với sự liên kết parapsychology và AAAS đã không thành công.

Dự án Stargate

Đầu thập niên 1950, CIA bắt đầu nghiên cứu mạnh về kĩ thuật hành vi (behavioral engineering). Nhiều thí nghiệm khác nhau đã được tiến hành theo tiến trình của nghiên cứu này, bao gồm cả một số thí nghiệm có sử dụng các chất gây ảo giác (hallucinogenic substance). Các phát hiện từ các thí nghiệm này dẫn đến sự hình thành dự án Stargate, đảm nhận việc nghiên cứu ngoại cảm ESP cho chính phủ liên bang Hoa Kỳ.

Dự án Stargate bị ngừng vào năm 1995 với kết luận rằng nó chưa bao giờ hữu dụng trong bất cứ hoạt động tình báo nào. Thông tin mơ hồ và có nhiều dữ liệu sai và không liên quan. Còn có nguyên nhân khác để nghi ngờ đó là các giám đốc nghiên cứu đã chỉnh sửa các báo cáo của họ về dự án để khớp với các ám hiệu cơ bản đã biết.

Thập niên 1970 và 1980

Sự liên kết của Hiệp hội Parapsychological Association (PA) với Hiệp hội American Association for the Advancement of Science, cùng với sự cởi mở nói chung đối với các hiện tượng tâm linh và huyền bí vào thập niên 1970 đã dẫn đến một thập kỉ nghiên cứu parapsychology được đẩy mạnh. Trong suốt thời kì này, các tổ chức có liên quan khác cũng được thành lập, bao gồm Academy of Parapsychology and Medicine (1970, Viện hàn lâm Parapsychology và Y học), Institute of Parascience (1971, Viện Parascience), Academy of Religion and Psychical Research (Học viên Tôn giáo và Nghiên cứu Tâm linh), Institute of Noetic Sciences (1973, Viện Các khoa học Tâm thần), International Kirlian Research Association (1975, Hiệp hội Nghiên cứu Kirlian Quốc tế), và Princeton Engineering Anomalies Research Laboratory (1979, Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Những điều dị thường về Kĩ thuật của Princeton). Các công trình nghiên cứu parapsychology cũng được tiến hành ở Stanford Research Institute (SRI, Viện Nghiên cứu Standford) suốt thời gian này. Người quảng bá chính cho psychotronic là một nhà khoa học người Czech tên là Zdeněk Rejdák. Ông đã mô tả nó là một ngành khoa học vật lý, tổ chức các hội thảo và chủ trì International Association for Psychotronic Research (Hiệp hội Quốc tế dành cho Nghiên cứu Psychotronic).

Vào năm 1985 một Chair of Parapsychology được thành lập trong Khoa Psychology tại University of Edinburgh và được trao cho Robert L. Morris, một parapsychologist thực nghiệm từ Hoa Kỳ. Morris và các cộng sự nghiên cứu và các nghiên cứu sinh tiến sĩ của mình đã theo đuổi các chủ đề nghiên cứu liên quan đến parapsychology.

Thời hiện đại

Nghiên cứu

Phạm vi

Phương pháp luận

Nghiên cứu thực nghiệm

Ganzfeld

Xem từ xa

Psychokinesis trên các bộ sinh số ngẫu nhiên

Tương tác tinh thần trực tiếp với các cơ thể sống

Thần giao cách cảm qua giấc mơ

Trải nghiệm cận tử

Nghiên cứu về sự tái sinh

Tiếp nhận khoa học

Đánh giá

Vật lý học

Ngụy khoa học

Xảo trá

Chỉ trích về các kết quả thực nghiệm

Thiên vị lựa chọn và phân tích meta

Tâm lý học dị thường

Tổ chức hoài nghi

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Các bức ảnh tự cho là mô tả [[ma quỷ và các linh hồn đã từng phổ biến trong suốt thế kỷ XIX.]] **Siêu tâm lý học** (tiếng Anh: _parapsychology_) hay còn gọi là **cận
nhỏ|phải|Một khoá học về tâm lý học chiều sâu ở Nga năm 2014 **Tâm lý học chiều sâu** (_Depth psychology_/_Tiefenpsychologie_) đề cập đến việc thực hành và nghiên cứu khoa học về vô thức, bao
phải|nhỏ|395x395px|
[[Carl Jung|Carl jung
]] **Tâm lý học phân tích**, hay **phân tích tâm lý Jung** là tên mà Carl Jung, một nhà tâm thần học người Thụy Sĩ, đã đặt cho "khoa
**Tâm lý học** () là ngành khoa học nghiên cứu về tâm trí và hành vi, tìm hiểu về các hiện tượng ý thức và vô thức, cũng như cảm xúc và tư duy. Đây
liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Baby.jpg|nhỏ|223x223px|Các phương pháp đặc biệt được sử dụng trong nghiên cứu tâm lý của trẻ sơ sinh. liên_kết=https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BA%ADp%20tin:Conservation2.jpeg|nhỏ|Thử nghiệm của Piaget về [[Bảo tồn (tâm lý học)|Bảo tồn. Một trong những thí nghiệm được sử
**Tâm lý học tiến hóa** là một cách tiếp cận lý thuyết trong khoa học xã hội và tự nhiên, xem xét cấu trúc tâm lý từ quan điểm tiến hóa hiện đại. Nó tìm
nhỏ|Ảnh chụp [[Eva Carriere vào năm 1912, với một luồng sáng rõ ràng xuất hiện giữa hai bàn tay.]] **Siêu thường** hay còn gọi là **siêu** **linh**, **dị thường** (tiếng Anh: _paranormal_) là một thuật
phải|Aristotle là một trong những triết gia có ảnh hưởng đến phát triển của đạo đức học. **Luân lý học** hay **triết học đạo đức** là một nhánh của triết học "liên quan đến việc
nhỏ|phải|Cấu trúc của tâm thức gồm bản năng, bản ngã và siêu ngã (Id, ego and superego) **Bản năng, bản ngã và siêu ngã** (_Id, ego and superego_) hay còn gọi là **Cái ấy, cái
**Tự biết mình (Self-knowledge)** là thuật ngữ tâm lý học mô tả thông tin mà một cá nhân có được trong quá trình tìm câu trả lời cho các câu hỏi như "Tôi là người
Tâm Lý Học Hiện Đại - Nhìn Thấu Tâm Can, Thay Đổi Tâm Trí Tác giả Ngụy Tri Siêu Vương Hiểu Vy Dịch giả Nguyễn Khánh Linh Số trang 320 trang Kích thước 16x24 cm
TÂM LÝ HỌC BIỂU CẢM Cuốn sách dạy bạn cách nhìn thấu người khác một cách rõ ràng nhất và chân thực nhất Từ gương mặt đến bước chân, từ ngôn ngữ đến cơ thể,
TÂM LÝ HỌC BIỂU CẢM Cuốn sách dạy bạn cách nhìn thấu người khác một cách rõ ràng nhất và chân thực nhất Từ gương mặt đến bước chân, từ ngôn ngữ đến cơ thể,
TÂM LÝ HỌC BIỂU CẢM Cuốn sách dạy bạn cách nhìn thấu người khác một cách rõ ràng nhất và chân thực nhất Từ gương mặt đến bước chân, từ ngôn ngữ đến cơ thể,
nhỏ|phải|_Mặt tối nội tâm_ (_Shadow_) của những [[Đam mê sắc dục|ham muốn bị cấm đoán, thầm kín mà người ta phải cố che dấu, kìm nén và chối bỏ, bởi trong cuộc sống hàng ngày
**Lý thuyết phân tâm học** là một lý thuyết về tổ chức nhân cách và động lực phát triển nhân cách, là cơ sở của phân tâm học, một phương pháp lâm sàng để điều
**Giả thuyết tâm lý xã hội**, viết tắt **PSH**, lập luận rằng ít nhất một số báo cáo UFO được giải thích tốt nhất bằng phương thức tâm lý hoặc xã hội. Nó thường trái
**Tâm trí** là tập hợp các lĩnh vực bao gồm các khía cạnh nhận thức như ý thức, trí tưởng tượng, nhận thức, suy nghĩ, trí thông minh, khả năng phán quyết, ngôn ngữ và
**Lý học** () là triết lý Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho giáo, khởi nguồn từ Hàn Dũ và vào đời Đường và trở thành cường thịnh vào đời Tống và Minh nhờ Chu
**Phân tâm học** không phải một chuyên ngành chính thống của tâm lý học, là một tập hợp các lý thuyết và kỹ thuật trị liệu liên quan đến việc nghiên cứu tâm trí vô
**Chán ăn tâm thần** (tiếng Anh: _anorexia nervosa_), hay **chán ăn tâm lý**, **biếng ăn tâm lý**, là một dạng của bệnh rối loạn ăn uống, có các triệu chứng như trọng lượng cơ thể
**Nhận thức ngoại cảm** hay còn gọi là **giác quan thứ sáu** là khả năng siêu thường của con người tiếp nhận không dựa vào năm giác quan thông thường mà bằng ý nghĩ. Thuật
nhỏ|phải|Hai người bạn đang học bài ở Kenya nhỏ|phải|Một phụ nữ đang học cách sử dụng trống phải|Trẻ em học trong một trường học nông thôn ở Bangladesh. nhỏ|phải|Một cô gái đang học bài ở
Mối quan hệ giữa **sử dụng phương tiện kỹ thuật số và sức khỏe tâm thần** đã được các nhà nghiên cứu khác nhau nghiên cứu, chủ yếu là các nhà tâm lý học, nhà
**Sinh lý học lâm sàng** là cả một ngành học trong các ngành khoa học y tế và lâm sàng chuyên khoa cho các bác sĩ trong các hệ thống chăm sóc sức khỏe của
**Nghiên cứu cận tử** (tiếng Anh: _Near-death studies_) là một lĩnh vực tâm lý học và tâm thần học nghiên cứu sinh lý học, hiện tượng học và dư chấn của trải nghiệm cận tử
phải|nhỏ| Nhân [[Anh hùng|vật anh hùng Achilles, một nhân vật trong các câu chuyện như tác phẩm Hy Lạp cổ đại _Iliad_, đã được biết đến với chủ nghĩa lý tưởng như được thể hiện
nhỏ|phải|Biểu đồ nguyên mẫu tâm lý theo trường phái Carl Jung (bằng tiếng Anh), trong đó, thể hiện mối quan hệ giữa nguyên mẫu nữ tính (_Anima_) với Lớp [[mặt nạ xã hội (_Persona_) che
**Lý luận hành động** (hay **học thuyết hành động**) là một lĩnh vực trong triết học có liên quan đến các học thuyết về các quan hệ nhân quả có ý chí của chuyển động
nhỏ|Minh họa thiền siêu việt **Thiền siêu việt** (**Transcendental Meditation**) đề cập đến một hình thức thiền định dùng thần chú và sự im lặng; và các tổ chức cấu thành phong trào Thiền siêu
phải|nhỏ|Tranh _Ascent of the Blessed_ của Hieronymus Bosch **Trải nghiệm cận tử** (tiếng Anh: _near-death experience_) là một trải nghiệm được kể lại bởi một người suýt chết hoặc đã bị chết lâm sàng và
nhỏ|phải|Nhân tố Nữ tính và Nam tính trong sâu thẳm vô thức mỗi con người **Vô thức tập thể** (_Collective unconscious_/_Kollektives Unbewusstes_) là một thuật ngữ do nhà tâm thần học Carl Jung đặt ra
nhỏ|phải|Diễn cảnh về cái Tôi nội tâm (Ego) **Cá tính hóa** (_Individuation_) mô tả cách thức một vật được xác định là trở nên khác biệt so với những vật khác. Khái niệm này xuất
nhỏ|phải|Hình hoạ về một phụ nữ với nổi khổ tâm dày vò nhưng phải sống che đậy dưới một lớp mặt nạ khác dưới những kỳ vọng câm lặng của cả một xã hội **Mặt
nhỏ|phải|Nhà tâm lý học [[Arthur Schopenhauer đã đề ra khái niệm Ý chí sống]] **Ý chí sinh tồn** (_Der Wille zum Leben_) hay **Ý chí sống** (_Will to live_) là một khái niệm do triết
thumb|[[Stanislav Grof chuyên viết về trải nghiệm cận sinh.]] **Trải nghiệm cận sinh** (viết tắt **TNCS** còn được gọi là **trải nghiệm trước khi sinh** hoặc **trải nghiệm tiền kiếp**) là một sự kiện được
thumb|[[William F. Barrett, nhà nghiên cứu hiện tượng lâm chung đầu tiên.]] **Hiện tượng lâm chung** đề cập đến một loạt các trải nghiệm được những người sắp chết kể lại. Có rất nhiều ví
**Nhà ngoại cảm**, **linh lực gia**, **năng lực gia** (tiếng Anh **ESPer** hay **psychic**), là một người tuyên bố sử dụng nhận thức ngoại cảm (ESP) để xác định thông tin ẩn khỏi các giác
Tư Duy Nhanh Và Chậm Tái Bản 2017 Chúng ta thường tự cho rằng con người là sinh vật có lý trí mạnh mẽ, khi quyết định hay đánh giá vấn đề luôn kĩ lưỡng
nhỏ|348x348px|Tượng _[[Người suy tư_ của Auguste Rodin là một biểu tượng của tư tưởng triết lý.]] **Triết học** (; ) là một ngành nghiên cứu có hệ thống về những vấn đề cơ bản và
**Triết học phương Đông** hay **triết học** **châu Á** bao gồm các triết học khác nhau bắt nguồn từ Đông và Nam Á bao gồm triết học Trung Quốc, triết học Nhật Bản và triết
**Hệ thống nhu cầu của Maslow** là một lý thuyết về tâm lý học được đề xuất bởi Abraham Maslow trong bài viết "A Theory of Human Motivation" năm 1943 trong Đánh giá Tâm lý
nhỏ|Sách _Mitologia Comparata (Thần thoại đối chiếu)_ năm 1887 bằng [[tiếng Ý]] **Thần thoại học** (tiếng Hy Lạp: _μυθολογία_ ghép từ _μῦθος_ - "thần thoại" hay "truyền thuyết" và _λόγος_ - "lời nói", "câu chuyện",
**Triết học khoa học** là một nhánh của triết học quan tâm đến nền tảng, phương pháp và các hậu quả của khoa học. Các câu hỏi trung tâm của môn học này bao gồm
**Quản lý thông tin cá nhân** (_PIM_) là hoạt động mà mọi người thực hiện để thu thập, tổ chức, duy trì, truy xuất và sử dụng các mục thông tin cá nhân như tài
**Sigmund Freud** (tên đầy đủ là **Sigismund Schlomo Freud**; 6 tháng 5 năm 1856 – 23 tháng 9 năm 1939) là một bác sĩ thần kinh và là nhà tâm lý học người Áo. Ông
**Lý trí** là khả năng của ý thức để hiểu các sự việc, sử dụng logic, kiểm định và khám phá những sự kiện; thay đổi và kiểm định hành động, kinh nghiệm và niềm
**Stanislav** "**Stan**" **Grof** (sinh ngày 1 tháng 7 năm 1931) là một nhà tâm thần học người Séc, một trong những người sáng lập ra lĩnh vực tâm lý học siêu nhân cách và là
nhỏ|Các tín đồ Triết học Kitô giáo|255x255px **Triết học Kitô giáo** là một sự phát triển của một hệ thống triết học đặc trưng của truyền thống Kitô giáo. ## Triết học Hy Lạp và
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về