✨Đường cong Laffer
Trong kinh tế học, đường cong Khaldun-Laffer là sự miêu tả quan hệ giữa các mức thuế suất có thể với mức thu ngân sách nhà nước được tạo ra từ đó. Nó minh họa khái niệm độ co giãn của thu nhập chịu thuế—nghĩa là, thu nhập chịu thuế sẽ thay đổi theo các thay đổi trong việc áp dụng thuế suất. Nó mặc nhiên công nhận rằng sẽ không có thu nhập thuế ở các mức thuế suất tột cùng là 0% và 100% và rằng phải có ít nhất một mức thuế suất mà khi đó thu nhập thuế sẽ là cực đại lớn hơn 0.
Đường cong Laffer thông thườngđược trình bày dưới dạng đồ thị bắt đầu với mức thuế suất 0% và thu nhập thuế bằng 0, tăng tới mức cực đại về thu nhập thuế ở một mức thuế suất trung gian nào đó, và sau đó giảm xuống tới mức thu nhập thuế bằng 0 ở mức thuế suất 100%. Sự tồn tại thực tế và hình dạng của đường cong là không chắc chắn và còn gây tranh cãi.
Một kết quả tiềm tàng của đường cong Laffer là khi thuế suất tăng lên vượt qua một ngưỡng nào đó thì nó sẽ phản tác dụng đối với việc gia tăng thêm nữa thu nhập thuế. Đường cong Laffer giả thuyết đối với một nền kinh tế nào đó chỉ có thể ước tính và các ước tính như vậy là gây tranh cãi. The New Palgrave Dictionary of Economics thông báo rằng các ước tính về các mức thuế suất có thu nhập thuế cực đại là dao động khá rộng, với khoảng trung bình khoảng 70%.
Mặc dù nhà kinh tế học Arthur Laffer không tuyên bố đã nghĩ ra khái niệm đường cong Laffer. Thuật ngữ "đường cong Laffer" được Jude Wanniski – người cũng có mặt trong cuộc gặp này – nghĩ ra. Khái niệm cơ sở không phải là mới; bản thân Laffer cũng nhận thấy các tiền đề trong các tác phẩm của Ibn Khaldun và John Maynard Keynes.
Các vấn đề lý thuyết
Các diễn giải
nhỏ|Đường cong Laffer: t* là thuế suất mà thu nhập cực đại được tạo ra. Đây là đường cong như được [[Arthur Laffer vẽ ra.
Nhiều cố gắng khác nhau đã được thực hiện để định lượng mối quan hệ giữa thu nhập thuế và thuế suất (chẳng hạn, của Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) tại Hoa Kỳ).
Các vấn đề
Laffer giả định rằng chính quyền sẽ không có thu nhập từ thuế khi thuế suất ở mức 100% do không còn sự khích lệ để tìm kiếm thu nhập từ những người nộp thuế. Nghiên cứu đã phát triển các mô hình toán học lý thuyết mà trong đó đường cong Laffer có thể liên tục dựng đứng tới mức thuế suất 100%, mặc dù không rõ ràng liệu điều đó có thể xảy ra trên thực tế hay không và khi nào thì các giả định mà các mô hình toán học dựa vào đó được thực thi trong các nền kinh tế thật. Ngoài ra, đường cong Laffer phụ thuộc vào giả định rằng thu nhập thuế được sử dụng để cung cấp hàng hóa/dịch vụ công có thể tách biệt về tính hữu dụng và tách biệt với cung lao động, điều có thể không đúng trên thực tế. Đường cong Laffer như đã trình bày cũng là sự đơn giản hóa trong việc giả định rằng chỉ có một thuế suất duy nhất và chỉ có một cung lao động duy nhất. Các hệ thống thực tế của tài chính công là phức tạp hơn. Có sự nghi vấn quan trọng về sự tương quan của việc xem xét một thuế suất biên duy nhất. Nghiên cứu năm 1996 của Y. Hsing về kinh tế Hoa Kỳ từ năm 1959 tới năm 1991 đặt thuế suất liên bang trung bình để có thu nhập thuế tối đa nằm trong khoảng từ 32,67% tới 35,21%. Bài báo công bố năm 1981 trong Journal of Political Economy (Tạp chí kinh tế chính trị) trình bày một mô hình tích hợp các dữ liệu kinh nghiệm chỉ ra rằng điểm để có thu nhập thuế tối đa tại Thụy Điển trong thập niên 1970 có thể phải là 70%. Bài báo của Trabandt và Uhlig thuộc Tổ chức nghiên cứu kinh tế quốc gia (NBER) năm 2009 trình bày một mô hình dự đoán rằng các nền kinh tế Mỹ và phần lớn các nước châu Âu nằm bên trái của đường cong Laffer (nói cách khác còn dư địa để tăng thuế suất để tăng thu nhập thuế).
Phân tích của Văn phòng ngân sách quốc hội Mỹ
Năm 2005, Văn phòng ngân sách quốc hội Mỹ (CBO) công bố một bài báo gọi là "Analyzing the Economic and Budgetary Effects of a 10 Percent Cut in Income Tax Rates" (Phân tích các hiệu ứng kinh tế và ngân sách của việc cắt giảm 10 phần trăm thuế suất thuế thu nhập). Bài báo xem xét tác động của việc cắt giảm cách điệu hóa 10% trong suất biên hiện hành khi đó của thuế thu nhập liên bang tại Hoa Kỳ (chẳng hạn, nếu nó ở mức biên 25% thuế suất thuế thu nhập liên bang thì người ta hạ nó xuống 22,5%). Không giống như các nghiên cứu trước đó, bài báo của CBO ước tính tác động ngân sách của các hiệu ứng kinh tế vĩ mô có thể của các chính sách thuế, nghĩa là, nó cố gắng giải thích các cắt giảm trong thuế suất thuế thu nhập cá nhân có thể ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển tương lai tổng thể của nền kinh tế, và vì thế ảnh hưởng tới thu nhập thuế trong tương lai của chính quyền; và cuối cùng, ảnh hưởng tới thâm hụt hay thặng dư. Trong kịch bản phát triển ước tính hào phóng nhất của bài báo thì chỉ 28% của thu nhập mất đi được dự đoán từ việc hạ thấp thuế suất có thể được bù đắp lại trong thời gian 10 năm sau khi cắt giảm đồng loạt 10% tất cả các mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân. Nói cách khác, các khoản thâm hụt sẽ tăng lên gần như bằng cùng một giá trị như giá trị thuế cắt giảm trong 5 năm đầu tiên, với thu nhập hoàn ngược lại hạn chế sau đó. Do các thâm hụt ngân sách tăng lên, các cắt giảm thuế chủ yếu làm lợi cho những người giàu có về các khoản thuế lẽ ra họ phải chịu — cộng tiền lãi — bởi các khoản thuế phát sinh tương đối đồng đều cho tất cả những người nộp thuế. Bài báo chỉ ra rằng các thiếu hụt được dự đoán này của thu nhập thuế có thể được bù đắp bằng vay mượn liên bang: bài báo ước tính rằng chính quyền liên bang sẽ phải trả thêm 200 tỷ USD tiền lãi trong thập niên được xem xét trong phân tích của bài báo.
Khác
Laffer cũng trình bày các ví dụ về Nga và các quốc gia vùng Baltic, những quốc gia áp dụng thuế suất đồng đều với các mức thuế suất thấp hơn 35% và các nền kinh tế này bắt đầu tăng trưởng sau khi thực thi các chính sách này. Ông cũng viện dẫn tương tự về kết quả kinh tế của luật cắt giảm thuế Kemp-Roth, các cắt giảm thuế Kennedy, các cắt giảm thuế thập niên 1920, và các thay đổi trong cấu trúc thuế thu nhập mại sản ở Hoa Kỳ năm 1997. Tuy nhiên, những người khác lại gọi quy luật Hauser là "lầm lạc" và tranh cãi rằng các thay đổi về thuế có những ảnh hưởng lớn tới thu nhập thuế.
Đánh thuế tối ưu
Một trong các sử dụng của đường cong Laffer là để xác định thuế suất sẽ tạo ra thu nhập thuế tối đa (nói cách khác "tối ưu hóa" thu nhập thuế). Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn thuế suất tối đa hóa thu nhập với thuế suất tối ưu, là thuật ngữ được các nhà kinh tế học sử dụng để mô tả thuế suất tạo ra một lượng nhất định thu nhập thuế mà gây ra ít méo mó nhất cho nền kinh tế.
Quan hệ với kinh tế học trọng cung
Kinh tế học trọng cung là một trường phái của kinh tế học vĩ mô cho rằng tình trạng lành mạnh kinh tế tổng thể được tối đa hóa bằng việc giảm bớt các rào cản đối với sản xuất hàng hóa và dịch vụ ("phía cung" của nền kinh tế). Bằng cách giảm bớt các rào cản, người ta cho rằng người tiêu dùng được lợi từ cung hàng hóa và dịch vụ nhiều hơn với giá cả thấp hơn. Chính sách trọng cung điển hình sẽ ủng hộ các mức thuế thu nhập và thuế thu nhập mại sản nói chung thấp hơn (để tăng cung lao động và vốn), tổ chức chính quyền gọn gàng hơn và giảm bớt gánh nặng kiểm soát lên các doanh nghiệp (để giảm giá thành sản xuất). Mặc dù chính sách thuế thường được đề cập tới trong mối quan hệ với kinh tế học trọng cung, nhưng các nhà kinh tế học trọng cung quan tâm tới tất cả các trở ngại đối với cung hàng hóa và dịch vụ, chứ không phải chỉ quan tâm tới mỗi việc đánh thuế.
Lịch sử
Nguồn gốc
Thuật ngữ "đường cong Laffer" được cho là do Jude Wanniski (một nhà báo viết cho The Wall Street Journa) nghĩ ra sau cuộc gặp ăn trưa năm 1974 tại nhà ăn Two Continents ở khách sạn Washington, gồm Arthur Laffer, Wanniski, Dick Cheney, Donald Rumsfeld và phó thư ký báo chí của ông là Grace-Marie Arnett. Trong cuộc gặp này, Laffer, trong khi tìm luận cứ chống lại chính sách tăng thuế của tổng thống Gerald Ford, được cho là đã vẽ ra một đường cong trên khăn ăn để minh họa khái niệm. Cheney không chấp nhận ý tưởng này ngay lập tức, nhưng nó đã lôi cuốn trí tưởng tượng của những người khác góp mặt khi đó. Laffer tuyên bố không có hồi ức về chiếc khăn ăn này, nhưng viết rằng: "Tôi đã sử dụng cái gọi là đường cong Laffer mọi khi trong các lớp học của tôi và với bất kỳ ai muốn nghe tôi nói." và trong thời gian gần đây hơn là cho John Maynard Keynes.
Trong số những người khác, David Hume đã đưa ra các luận cứ tương tự trong chuyên khảo Of Taxes năm 1756 của ông, cũng như người đồng hương Scotland của ông là nhà kinh tế học Adam Smith sau đó 20 năm.
David Stockman, giám đốc ngân sách của Ronald Reagan trong nhiệm kỳ thứ nhất của ông và là một trong những người đề xuất đầu tiên của kinh tế học trọng cung, đã e ngại rằng chính quyền đã không quan tâm tới mức cần thiết đối với cắt giảm chi tiêu chính phủ. Ông giữ quan điểm cho rằng đường cong Laffer đã không được thực thi theo đúng nghĩa đen — ít nhất là không trong môi trường kinh tế của Hoa Kỳ thập niên 1980. Trong The Triumph of Politics (Chiến thắng của chính trị), ông viết: "Toàn thể băng nhóm California đã thực thi [đường cong Laffer] theo nghĩa đen (và nguyên thủy). Theo cách mà họ nói chuyện, dường như họ kỳ vọng rằng một khi cắt giảm thuế trọng cung có hiệu lực thì thu nhập bổ sung sẽ bắt đầu trút xuống như lộc trời cho. Từ tháng 1, tôi đã giải thích rằng không có đường cong Laffer theo nghĩa đen". Stockman cũng nói rằng "Laffer đã không sai, ông chỉ không tiến đủ xa" (trong việc quan tâm tới chi tiêu chính phủ).
Một số người đã phê phán các yếu tố của thuyết kinh tế Reagan trên cơ sở của tính công bằng. Chẳng hạn, nhà kinh tế học John Kenneth Galbraith tin rằng chính quyền Reagan đã tích cực sử dụng đường cong Laffer "để hạ thấp thuế đối với người giàu". Một số nhà phê phán chỉ ra rằng thu nhập thuế gần như luôn luôn tăng mỗi năm, và trong hai nhiệm kỳ của Reagan thì sự gia tăng thu nhập thuế là thấp hơn so với các mức gia tăng trong các nhiệm kỳ tổng thống khi thuế suất biên cao nhất ở mức cao hơn. Các nhà phê phán cũng chỉ ra rằng kể từ thời cắt giảm thuế của Reagan thì thu nhập đã không tăng đáng kể đối với phần còn lại của dân chúng. Khẳng định này được hỗ trợ bởi các nghiên cứu cho thấy thu nhập của 1% dân số có thu nhập cao nhất đã tăng gần gấp đôi trong các nhiệm kỳ của Reagan, trong khi thu nhập của các mức thu nhập khác chỉ tăng không đáng kể và thu nhập thực tế đã giảm đối với ngũ phân vị dưới cùng.
Cắt giảm thuế của Bush
nhỏ|Thay đổi trong tốc độ tăng trưởng hàng năm của GDP trên đầu người từ 09-1975 tới 08-2004 so với thay đổi trong thuế suất biên cao nhất của 18 nước thuộc OECD. Việc thiếu sự tương quan đáng kể mâu thuẫn với các học thuyết trọng cung và gợi ý rằng cắt giảm các thuế suất cao nhất có thể không dẫn tới tăng trưởng kinh tế cao hơn.
Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) đã ước tính rằng sự gia hạn các chương trình cắt giảm thuế thời Bush 2001–2003 qua kỳ đáo hạn là năm 2010 sẽ làm tăng thâm hụt thêm 1,8 nghìn tỷ USD trong thập kỷ sau. Nhà kinh tế học Paul Krugman tranh luận rằng các môn đồ của phái trọng cung đã không hoàn toàn tin tưởng rằng thuế suất thuế thu nhập của Hoa Kỳ là ở phía "dốc thụt lùi" của đường cong và tuy thế nhưng vẫn cổ vũ cho việc hạ thấp thuế để khuyến khích đầu tư của các khoản tiết kiệm cá nhân
Bên ngoài Hoa Kỳ
Trong giai đoạn 1979-2002, trên 40 quốc gia khác, trong đó có Vương quốc Liên hiệp Anh, Bỉ, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Na Uy và Thụy Điển đã cắt giảm các thuế suất cao nhất của thuế thu nhập cá nhân. Trong một bài báo về điều này, Alan Reynolds, một thành viên cao cấp của Viện Cato, đã viết: "Tại sao lại có quá nhiều nước khác cắt giảm mạnh các thuế suất biên? Có lẽ họ chịu ảnh hưởng của phân tích kinh tế mới và chứng cứ từ... kinh tế học trọng cung. Nhưng sức mạnh chủ yếu của ví dụ có thể có sức thuyết phục lớn hơn. Các nhà chức trách đã nhận thấy rằng các chính quyền quốc gia khác sống khỏe hơn bằng cách thu được một phần vừa phải của một nền kinh tế phát triển nhanh (thuế biên thấp) hơn là cố gắng lấy được một phần lớn hơn của một nền kinh tế đình trệ (trung bình thuế cao)."
Chính phủ Nhật Bản đã tăng thuế mua hàng vào năm 1997 với mục đích làm cân bằng ngân sách, nhưng thu nhập từ thuế của chính phủ đã giảm 4,5 nghìn tỷ yên do tiêu thụ giảm. Quốc gia này cũng ghi nhận tốc độ tăng trưởng GDP 3% vào năm 1996, nhưng sau khi thuế tăng thì nền kinh tế rơi vào suy thoái. Thu nhập thuế đạt mức đỉnh là 53 nghìn tỷ yên trong năm tài chính 1997 và suy giảm vào những năm sau đó, chỉ đạt 42 nghìn tỷ yên (~ 537 tỷ USD) năm 2012.