✨Dương Bá Trạc

Dương Bá Trạc

Dương Bá Trạc (chữ Hán: 楊伯濯; 1884–1944), hiệu Tuyết Huy(雪輝); là nhà cách mạng, nhà báo, nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc. Theo Vũ Ngọc Phan, trong các nhà văn đi tiên phong ở nửa đầu thế kỷ 20, ông được kể là một người lỗi lạc.

Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh ngày 27 tháng 3 năm Giáp Thân (22 tháng 4 năm 1884) tại làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu (nay là huyện Văn Giang), tỉnh Hưng Yên.

Ông là con Dương Trọng Phổ (1862–1927), một nhà Nho có tư tưởng tiến bộ; là anh ruột Dương Quảng Hàm (1898–1946) và Dương Tụ Quán (1902–1969); cả hai đều là nhà giáo tiến bộ thời cận đại.

Vốn có tư chất thông minh, lại được cha rèn dạy, năm 16 tuổi Dương Bá Trạc thi đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1900). Năm Giáp Thìn (1904), ông cùng Phan Chu Trinh vào mật khu Yên Thế bàn việc nước với lãnh tụ Hoàng Hoa Thám.

Lập Đông Kinh Nghĩa thục

Nhận thấy cái học cử nghiệp từ chương đã lỗi thời, cuối năm Bính Ngọ (1906), ông cùng với Nguyễn Quyền, Lê Đại, Hoàng Tăng Bí, Lương Văn Can lập Đông Kinh Nghĩa Thục.

Tháng 3 năm 1907, trường khai giảng ở Hàng Đào do Lương Văn Can làm Thục trưởng kiêm giảng sư ban Cao đẳng Hán học, Nguyễn Quyền làm Giám học, còn ông thì có chân trong Ban Tu thư (cùng với Lương Trúc Đàm, Phạm Tư Trực, Lê Đại, Nguyễn Hữu Cầu...) lo việc dạy học, diễn thuyết, bình văn và biên soạn sách. Ông cũng góp vốn mở các hiệu buôn Đồng Lợi Tế, Đông Thành Xương, và Hồng Tân Hưng để tài trợ gửi thanh niên theo phong trào Đông Du.

Bị nghi ngờ có tư tưởng chống đối, khoảng tháng 12 năm 1907, trường bị nhà cầm quyền Pháp cho đóng cửa. Năm ấy, nhân dân Quảng Nam kéo nhau hàng vạn người đến nhà chức trách đòi giảm thuế, rồi phong trào này lan khắp các tỉnh miền Trung. Cùng thời gian ở Hà Nội lại xảy ra vụ Hà Thành đầu độc ngày 27 tháng 6, khiến thực dân Pháp nghi là do các thân sĩ (trong đó có nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục và Duy Tân) xúi giục nên thẳng tay đàn áp.

Biết Dương Bá Trạc đang cùng với các đồng chí mưu đồ việc lớn, chính quyền đã ra lệnh cho tri phủ Khoái Châu là Cung Khắc Đản cho lính về khám xét nhà ông, bắt cha mẹ và các em nhỏ của ông lên tỉnh xét hỏi.

Bị lưu đày

Trong tài liệu của Sở Liêm phóng Đông Dương mang ký hiệu FL 124139, hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, có đoạn kể lại rằng tại phiên xử ngày 15 tháng 10 năm 1908, Hội đồng đề hình đã nêu lên sự liên quan mật thiết giữa nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục với những người khởi xướng vụ đầu độc trên. Vì vậy, sau khi bị giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), rồi bị giải về Hà Đông để cho viên Tổng đốc nơi đó là Hoàng Trọng Phu thẩm vấn ròng rã hơn một tháng trời, Dương Bá Trạc lại bị giải về Hà Nội lần nữa để xử. Cuối cùng, Hội đồng đề hình đã kết tội Nguyễn Quyền, Vũ Hoành, Lê Đại án khổ sai chung thân; Dương Bá Trạc án 15 năm khổ sai; Dương Trọng Phổ và Hoàng Tăng Bí án 5 năm khổ sai. Xét xử xong, tất cả đều bị giam ở Hỏa Lò rồi bị đày ra đảo Côn Lôn.

Tháng 8 năm Canh Tuất (1910), sau khi ở Côn Lôn 20 tháng, Dương Bá Trạc được đưa về đất liền an trí ở hạt Long Xuyên (nay thuộc An Giang). Ở đây ông sống bằng nghề dạy học, bốc thuốc và vẫn ngấm ngầm liên hệ với những người đồng chí hướng. Để che mắt nhà chức trách, ông cùng người em trai chuẩn bị thành lập một công ty canh nông tại Long Xuyên, nhưng việc chưa thành thì người em bị trục xuất ra Bắc, còn ông mấy tháng sau bị đưa ra tòa. Ở tòa, ông tự bào chữa nên thoát tội, nhưng phải dời chỗ ở đến sát dinh Tòa bố để dễ kiểm soát.

Dùng ngòi bút để khai thông dân trí

Hơn sáu năm trôi qua, ngày 16 tháng 1 năm 1917, ông được Toàn quyền Albert Sarraut ký lệnh ân xá, cho về Hà Nội. Đến Hà Nội, Dương Bá Trạc mới biết chính quyền thực dân ban lệnh thả chỉ vì muốn mua chuộc những người trí thức như ông ra làm việc. Cân nhắc thiệt hơn, ông đành nhận làm một chân bỉnh bút cho Nam Phong tạp chí lúc đó đang chuẩn bị ra đời.

Rồi với ý định dùng báo chí để khai thông dân trí, góp phần làm cho đất nước trở nên phú cường, ông còn nhận viết cho mấy tờ báo khác nữa, như: Tri tân, Trung Bắc tân văn (hồi Nguyễn Văn Vĩnh còn đảm trách)...

Ngày 2 tháng 5 năm 1919, Hội Khai Trí Tiến Đức được thành lập với Phạm Quỳnh làm tổng thư ký, Hoàng Huân Trung làm hội trưởng; Dương Bá Trạc cũng đã cùng Ban văn học khởi thảo bộ Việt Nam tự điển, Việt Nam văn phạm.

Năm 1932–1935, ông làm chủ bút tờ Văn học tạp chí.

Năm 1935, ông cùng Nguyễn Năng Quốc, Nguyễn Quang Oánh, Lê Dư sáng lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ và ra tờ Đuốc Huệ, làm cơ quan ngôn luận của hội. Cũng trong năm ấy (1935), ông làm chủ bút tờ Đông Tây báo cho đến năm 1936.

Năm 1937, ông lập "Hội Dân ích".

Mất ở xứ người

Năm 1939 ông được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội, một tổ chức thân Nhật với hội chủ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để giao nhiệm vụ tổ chức nhân sự ở Bắc Kỳ để chống Pháp. Năm sau quân đội Nhật Bản tiến vào Đông Dương. Ngày 29 tháng 10 năm 1943, ông cùng Trần Trọng Kim vào Sài Gòn và sống ở đó một tháng, sau đó người Nhật đưa hai ông sang Singapore.

Ở xứ người, hai ông luôn mong tìm một kế sách giúp nước nhà sớm được độc lập, nhưng ý nguyện chưa thành, thì Dương Bá Trạc mất vì bệnh ung thư phổi vào ngày 26 tháng 10 năm Giáp Thân (11 tháng 12 năm 1944). Sau đó, thi hài ông được hỏa táng để đem về nước.

Ngày 17 tháng 3 năm 1945, trong lễ truy điệu các liệt sĩ tại Nhà hát lớn Hà Nội, ở bài điếu văn, người ta liệt tên Dương Bá Trạc cùng với tên hai nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Ngày hôm sau, lúc năm giờ chiều, Hội Phật giáo Bắc Kỳ làm lễ truy điệu ông tại chùa Quán Sứ. Cùng ngày ấy, tại Sài Gòn, rất đông các nhân sĩ, trí thức và đồng bào cũng làm lễ truy điệu ông tại Vườn ông Thượng (nay là Công viên Tao Đàn).

Tác phẩm

Văn xuôi

Hai tác phẩm mang tính chất giảng học: Chữ Nho học lấyGia lễ giản yếu

Hai tập văn: Tiếng gọi đàn (Nghiêm Hàm, Hà Nội, 1925) và Bức thư ngỏ cùng quan Tổng trưởng thuộc địa

Thơ

:# Trai lành gái tốt (Nghiêm Hàm ấn thư quán xuất bản, Hà Nội, 1924) :# Nét mực tình (Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 1937)

Các thể loại khác

Đăng tải nhiều kỳ trên các báo, theo các chủ đề: :Việt sử khảo :Việt sử luận :Khảo cứu về sự thi ở nước ta :Bàn về vấn đề học chữ Hán

Ngoài ra, ông còn viết những bài xã thuyết (có tính cách luân lý, xã hội hay liên quan đến kinh tế, chính trị đương thời), nhiều câu đối, dịch Hán văn và viết ký truyện.

Đánh giá

*Chương Thâu: :_Trong công luận, một thời người ta cho rằng Dương Bá Trạc là "người của Nhật" hay "thân Nhật". May sao, nhờ những vần thơ tâm niệm ông gửi về cho mẹ già (Nhớ mẹ), cho bạn bè (Lưu giản các bạn trong ngoài), cho con cháu (Bảo con cháu); và có lẽ hơn cả mọi điều cải chính, tập hồi ký Một cơn gió bụi (Nhà xuất bản Vinh Sơn, Sài Gòn, 1969) của nhà sử học Trần Trọng Kim, đã nói rõ mọi sự thật về con người, cuộc đời, tư tưởng và sự nghiệp của nhà chí sĩ yêu nước, nhà hoạt động văn hóa khả kính Dương Bá Trạc._

*Phạm Ngọc Lan: :Nhìn chung Dương Bá Trạc là người quan tâm đến thời cuộc, đến những vấn đề chung của xã hội hơn là để ngòi bút trôi theo những cảm xúc riêng của cá nhân. Thơ ông viết khá đều tay, không có bài kém nhưng bài hay cũng không nhiều. Thơ hoài cổ và vịnh sử thường có lời cứng cáp, nhưng giọng điệu nặng nề kém phần thanh thoát; trái lại thơ vịnh cảnh thật nhẹ nhàng bóng bẩy, nhiều khi có lời đẹp, ý tứ khá sâu sắc và tinh tế…

:Tóm lại, cuộc đời và thơ văn của Dương Bá Trạc rất đáng để tìm hiểu và nghiên cứu, bởi vì ông là một nhân vật có thể đại diện cho lớp sĩ phu nho học khoa cử cuối cùng cố gắng tiến theo thời đại. Thơ văn của ông góp phần phản ánh giai đoạn lịch sử nước ta ở nửa đầu thế kỷ XX.

Thông tin thêm

Hiện nay, Dương Bá Trạc được đặt tên đường tại Phường 1 và Phường 2 thuộc Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Ở phường 2 quận 8, còn có trường Trung học cơ sở mang tên ông.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Dương Bá Trạc** (chữ Hán: 楊伯濯; 1884–1944), hiệu **Tuyết Huy**(雪輝); là nhà cách mạng, nhà báo, nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc. Theo Vũ Ngọc Phan, trong các nhà văn đi tiên phong ở
phải|Chân dung Võ Bá Hạp **Võ Bá Hạp** (武伯合, 1876-1948), tự: **Nguyên Bích**, hiệu: **Trúc Khê**; là một nhà chí sĩ Việt Nam thời cận đại. ## Tiểu sử **Võ Bá Hạp** sinh năm Bính
**Dương Bích Liên** (17 tháng 7 năm 1924 – 12 tháng 12 năm 1988) là một họa sĩ Việt Nam. Ông đặc biệt thành công với những tác phẩm về chân dung thiếu nữ (Phố
**Dương Quảng Hàm** (Hán tự: 楊廣涵), tự **Hải Lượng** (海量), là nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục Việt Nam. Tác phẩm _Việt Nam văn học sử yếu_, do ông dày công biên soạn,
nhỏ|156x156px|Ấn triện của ông Dương Tụ Quán **Dương Tụ Quán** (chữ Hán: 楊聚灌, 1901 – 1969), tự **Khái Sinh**, hiệu **Mễ Dương**, là nhà văn, nhà báo Việt Nam. ## Cuộc đời Dương Tụ Quán
**_Đông Dương tạp chí_** (1913 - 1919), là tạp chí tiếng Việt đầu tiên xuất bản tại Hà Nội (Việt Nam). Tạp chí ra ngày thứ Năm hàng tuần, do F. H. Schneider, người Pháp
**Dương Trọng Bái** (29 tháng 8 năm 1924 – 18 tháng 3 năm 2011) là nhà giáo Việt Nam, nhà khoa học vật lý, Anh hùng Lao động. Ông là chắt của Đốc học Hà
**Dương Cẩm Chương** (1911 – 2014) là một bác sĩ, họa sĩ, nhà thơ người Việt Nam. ## Sự nghiệp Bác sĩ Dương Cẩm Chương sinh năm 1911 tại Long Xuyên. Ông là con trai
nhỏ|phải|Họ Dương (楊) viết bằng [[chữ Hán]] **Dương** (楊, 陽 hay 羊) là họ người Á Đông. Họ Dương 楊 phổ biến thứ 6 tại Trung Quốc. Họ này cũng tương đối phổ biến tại
Khi nói đến làng Liêu Xuyên (xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên), người ta thường nhắc đến vị Trạng nguyên đời Lý Cao Tông là Đỗ Thế Diên; đến 2 cha con
**Đông Kinh Nghĩa Thục** (; lập ra từ tháng 3 năm 1907 và chấm dứt vào tháng 11 năm 1907) là một phong trào nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam vào đầu
**Đường Trung Tông** (chữ Hán: 唐中宗, 26 tháng 11 năm 656 - 3 tháng 7 năm 710), là vị Hoàng đế thứ tư và thứ sáu của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, từng
nhỏ|Danh Sỹ Nguyễn Bá Trác **Nguyễn Bá Trác** (chữ Hán: 阮伯卓; 1881 – 1945), bút hiệu _Tiêu Đẩu_, là quan nhà Nguyễn, cộng sự của thực dân Pháp, nhà cách mạng, nhà báo và là
**Vi Hiền phi** (chữ Hán:韦贤妃, ? - 809), là phi tần của Đường Đức Tông Lý Quát. Bà nổi tiếng vì việc thờ cúng chồng mình cho đến tận khi qua đời. ## Đường triều
**Nguyễn Khả Trạc** (chữ Hán: 阮可濯, 1598-1672), tên thật **Nguyễn Văn Trạc** (阮文濯), là người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ. Ông theo Nho học, sau làm quan đến chức Công bộ thượng thư,
**Chu Trạc** (1845-1925), còn có tên khác là **Châu Đình Trạc**, là một nhà yêu nước Việt Nam, đỗ Cử nhân võ ở Thanh Hóa (1879). Ông từng tham gia phong trào khởi nghĩa Nguyễn
**Phạm Đình Trạc** (?-1833), tự **Bạt Khanh**; là quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử **Phạm Đình Trạc** là người ở huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương; nay là thị xã
**Võ Hoành** (1873-1946), hiệu **Ngọc Tiều**; là chí sĩ và là giáo viên Đông Kinh Nghĩa Thục và 1 nhà yêu nước ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử
**Trạc Thủy** (, _Trạc Thủy khê_) là dòng sông dài nhất tại Đài Loan. Sồng khởi nguồn từ huyện Nam Đầu và chảy qua ranh giới giữa hai huyện Vân Lâm, Chương Hóa với tổng
**Lê Trạc Tú** () (1533 hoặc 1534-1609) là một tể tướng và thượng thư thời Lê trung hưng. nay là vùng Cốc, huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa, thuộc dòng dõi thế phiệt. ## Sự nghiệp
**Nguyễn Hữu Cầu** (1879-1946), hiệu **Giản Thạch**, thường được gọi "Ông Cử Đông Tác" là một nhà nho tiến bộ, đồng sáng lập viên trường Đông Kinh Nghĩa Thục (viết tắt ĐKNT) năm 1907 tại
**Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội** - còn gọi là **Phục quốc Hội** - là một tổ chức chính trị của người Việt với mục đích đánh đuổi người Pháp tại Đông Dương và
Đây là dòng thời gian các sự kiện chính trong đại dịch COVID-19 gây ra bởi SARS-CoV-2 tại Việt Nam năm 2020. ## Thống kê _Số liệu cuối ngày 31 tháng 12 năm 2020_
**Hưng Yên** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, nằm ở miền Bắc Việt Nam, với trung tâm hành chính cách thủ đô Hà Nội khoảng hơn 55 km về phía Đông Nam.
**Lương Văn Can** (chữ Hán: 梁文玕; 1854 - 1927), hay **Lương Ngọc Can**, tự **Hiếu Liêm** và **Ôn Như** (溫如), hiệu **Sơn Lão** (山老); là một nhà cách mạng Việt Nam, và là một trong
**_Dương quang phổ chiếu_** ông Văn đã thú nhận với bà Trần toàn bộ mọi chuyện xảy ra trong suốt thời gian qua. Để có thể theo dõi A Hòa và Thái Đầu, ông đã
**Lương Khải Siêu** (1873 - 1929), tự là **Trác Như**, hiệu là **Nhiệm Công**, bút hiệu là **Ẩm Băng Tử**, **Ẩm Băng Thất chủ nhân**. Ông là nhà tư tưởng và là nhà hoạt động
Trang bìa ấn bản số 1, năm 1917 **_Nam Phong tạp chí_** là một tờ nguyệt san xuất bản tại Việt Nam từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 đến tháng 12 năm 1934 thì
Trấn [[Lý Đường (trấn)|Lý Đường thập niên 1840.]] **Lý Đường** (chữ Hán phồn thể: 理塘, giản thể: 理塘, Hán Việt: _Lý Đường_) là một huyện thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh
**Trần Trọng Kim** (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu **Lệ Thần**, từng làm thủ tướng
**Phong Hóa** (1932 - 1936) là một tuần báo xuất bản tại Hà Nội (Việt Nam), và đã trải qua hai thời kỳ: từ số 1 (ra ngày 16 tháng 6 năm 1932) đến số
**Nguyễn Văn Cừ** (9 tháng 7 năm 1912 - 28 tháng 8 năm 1941) là Tổng Bí thư thứ tư của Đảng Cộng sản Đông Dương từ năm 1938 đến năm 1940. ## Tiểu sử
nhỏ|phải|Học giả Phạm Quỳnh **Hội Khai Trí Tiến Đức**, còn được gọi là hội **AFIMA** (viết tắt nguyên tên tiếng Pháp của hội **l'Association pour la Formation Intellectuelle et Morale des Annamites**) là một hiệp
**Mai Văn Ngọc** (1882-1932), còn có tên là **Mai Bạch Ngọc**, hiệu **Nhâm Sinh**; là một chí sĩ yêu nước ở đầu thế kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. ## Tiểu sử sơ lược
Chân dung Nguyễn Quang Diêu **Nguyễn Quang Diêu** (1880 - 1936), tự **Tử Ngọc**, hiệu **Cảnh Sơn** (hay **Nam Sơn**); là nhà thơ và là chí sĩ thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
**Nguyễn Quyền** (1869–1941) là một chí sĩ yêu nước Việt Nam thời cận đại. Ông là một trong những sáng lập viên của phong trào Đông Kinh nghĩa thục. ## Tiểu sử Nguyễn Quyền, hiệu
**Á Tế Á ca** (nghĩa là "Bài ca châu Á"), còn có tên gọi khác là **Đề tỉnh quốc dân ca** (Bài ca thức tỉnh quốc dân), **Nam hải bô thần ca** (Bài ca của
phải|nhỏ|Cầu Nguyễn Văn Cừ nhìn từ phía quận 4 **Cầu Nguyễn Văn Cừ** bắc qua ngã 3 Kênh Tàu Hủ - Bến Nghé, Kênh Đôi, Kênh Tẻ nối liền quận 5 quận 8 quận 1
**Đại Thắng Minh Hoàng hậu** (chữ Hán: 大勝明皇后; 952 - 1000), dã sử xưng gọi **Dương Vân Nga** (楊雲娥), là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế thời kỳ đầu lập quốc trong Lịch sử
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Anna Ioannovna** (tiếng Nga: Анна Иоанновна; 7 tháng 2 [lịch cũ 28 tháng 1] năm 1693 – 28 tháng 10 [lịch cũ 17 tháng 10] năm 1740), cũng được Nga hóa là **Anna Ivanovna** và
**Lý Thạnh** (chữ Hán: 李晟, 727 – 793), tên tự là **Lương Khí**, người Lâm Đàm, Thao Châu , là tướng lĩnh trung kỳ nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia trấn
**Mary Tyler Moore** (29 tháng 12 năm 1936 – 25 tháng 1 năm 2017) là nữ diễn viên người Mỹ, nổi tiếng với chương trình hài kịch tình huống _The Mary Tyler Moore Show_ (1970–1977),
Danh sách này liệt kê các đảo do chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đang quản lý trên thực tế. ## Tổng quan # Đảo Đài Loan về mặt địa chất là một đảo lục
**Cao Lỗ** (277 TCN - 179 TCN), còn gọi là **Cao Thông**, **Đô Lỗ**, **Thạch Thần** hay **_Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần_**, là một tướng tài của An Dương Vương (Thục Phán), quê quán
**Phan Thanh** (1 tháng 6 năm 1908 – 1 tháng 5 năm 1939) là một chính khách kiêm nhà báo người Việt Nam. Ông là đảng viên Đảng Xã hội Pháp (S.F.I.O), dân biểu của
**Cuộc khởi nghĩa của Nông Văn Vân** là một cuộc đấu tranh chống nhà Nguyễn của các dân tộc thiểu số ở Việt Bắc (Việt Nam) do Nông Văn Vân làm thủ lĩnh, xảy ra
Mày mò cải tiến thành công nhiều máy móc, giúp nhà nông giảm chi phí, tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp.Không học qua bất kỳ trường lớp nào về chế tạo máy nhưng
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Minh Đức Mã hoàng hậu** (chữ Hán: 明德馬皇后; ? - 9 tháng 7, 79), hay thường gọi **Minh Đức hoàng thái hậu** (明德皇太后), **Đông Hán Minh Đức Mã hoàng hậu** (東漢明德馬皇后), **Đông Hán Mã thái