✨Đoàn Phú Tứ

Đoàn Phú Tứ

Đoàn Phú Tứ (1910 - 1989) là một nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến. Khi viết, ông ký tên thật hoặc các bút danh: Ngộ Không, Tam Tinh, Tuấn Đô,...

Tiểu sử

Ông sinh ngày 10 tháng 9 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán ông ở làng Tử Nê, xã Minh Đạo, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

Lúc trẻ, ông học ở trường Bưởi (nay là trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội) và trường Albert Sarraut (nay là trường Trung học Phổ thông Trần Phú - Hoàn Kiếm).

Năm 1925, ông bắt đầu viết văn khi còn học lớp nhất. Những bài văn đầu tiên là những bài từ khúc đăng Đông Pháp thời báo .

Năm 1932, ông thi đỗ Tú tài ban Triết học. Sau đó, ông theo học Đại học Luật, nhưng chỉ đến năm thứ hai thì bỏ học đi làm báo. Ông viết cho các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Hà Nội báo...

Khoảng năm 1935, ông bắt đầu viết kịch. Và trong khoảng thời gian 10 năm sau đó, ông đã viết và cho in nhiều kịch. Ngoài ra, ông còn là người tổ chức kịch đoàn (ban kịch Tinh hoa), làm đạo diễn và thủ vai trong nhiều vở .

Năm 1937, ông làm Chủ nhiệm tờ Tinh hoa.

Năm 1939, ông cùng với các văn nghệ sĩ cùng chí hướng sáng tạo, gồm các nhà văn, nhà thơ: Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Lương Ngọc; họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát thành lập nhóm Xuân Thu nhã tập. Đến tháng 6 năm 1942, thì họ xuất bản được một tập sách có cùng tên là Xuân Thu nhã tập (do Xuân Thu thư lâu xuất bản), gồm một số bài thơ, văn xuôi triết lý và tuyên ngôn nghệ thuật của nhóm .

Năm 1941, Đoàn Phú Tứ và bài thơ "Màu thời gian" của ông được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong quyển Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông hoạt động văn nghệ ở Thanh Hóa rồi Việt Bắc. Ông có chân trong tòa soạn tạp chí Văn nghệ, trong Ban chấp hành Đoàn Sân khấu Việt Nam và Hội Văn hóa Việt Nam.

Năm 1946, ông được bầu vào Quốc hội Việt Nam khóa I, nhưng sau đó đã từ nhiệm từ năm 1951. Theo tài liệu, thì trong lúc làm đại biểu Quốc hội, ông đã viết thư gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh để tố cáo Đại tá Trần Dụ Châu. Sau đó, Hồ Chủ tịch đã ra lệnh điều tra làm rõ vụ việc, và Trần Dụ Châu đã bị Tòa án binh tối cao tuyên án tử hình năm 1950 vì tội tham nhũng. Năm 1951 ông cũng từ nhiệm Đại biểu Quốc hội.

Năm 1951-1954, ông dạy Đại học Văn khoa và một vài trường tư thục ở Hà Nội.

Sau khi hòa bình lập lại (1954), khoảng 20 năm cuối đời, ông tiếp tục viết và dịch (ký bút danh Tuấn Đô) được nhiều tác phẩm có giá trị.

Cuối đời

Đoàn Phú TứNăm 1984, ông nhận Giải thưởng văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngày 20 tháng 9 năm 1989, Đoàn Phú Tứ mất trong cảnh nghèo tại khu An Dương, Ba Đình, Hà Nội, hưởng thọ 79 tuổi. Nghe theo lời trăn trối của bạn, nhà văn Phùng Quán đã 'bạo gan' đến Văn phòng Quốc hội để xin tiền mai táng, và được chấp thuận...Nhưng sau này trong cuốn "Ba phút sự thật" của Phùng Quán, ông đã viết khi Đoàn Phú Tứ mất, vì tình cảm ông dành cho Đoàn Phú Tứ, vì sự trân trọng của ông đối với người thi sĩ và vì ông cảm thấy buồn rầu vì gia cảnh "vô phương giúp đỡ" của nhà thơ nên đã đánh bạo viết một bức thư "chuyển lời" Đoàn Phú Tứ rằng: "...Nếu mình nằm xuống thì Quán hãy viết thư kêu ông Chủ tịch Quốc hội, trình bày hoàn cảnh gia đình mình, và chuyển lời mình đến với ông: Nếu Quốc hội còn nhớ tình cũ nghĩa xưa, thì xin một cỗ áo quan và một chút tiền để mai táng". Nhưng thực ra bức thư mà mọi người nghĩ là chuyển lời trăn trối của Đoàn Phú Tứ, bức thư mà Phùng Quán đã phải "đắn đo, cẩn trọng, chép đi chép lại nhiều lần, cân nhắc từng chữ một" lại là "ý tưởng" của Phùng Quán. Vì vậy nên ông đã viết trong phần cuối "Chút nghĩa cũ càng" (nằm trong Ba phút sự thật) rằng: "Tôi coi thiên hồi ức này là sự tạ tội trước hương hồn nhà thơ Đoàn Phú Tứ vì nội dung điều nói dối của tôi không phù hợp với tính cách con người ông; đồng thời đây cũng là lời tự thú với đồng chí Lê Quang Đạo mà tôi hết lòng kính trọng, với các anh ở cơ quan Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, và với độc giả." . Văn phòng Quốc hội mang đến Vòng hoa lớn với dòng chữ Kính viếng nhà thơ nổi tiếng Đoàn Phú Tứ.

Tác phẩm

Sáng tác

  • Những bức thư tình (gồm 6 vở kịch ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1937). Trong quyển có vở kịch "Hận Ly Tao" được nhà văn Vũ Ngọc Phan khen là "thật tuyệt vời" về mặt nghệ thuật .
  • Mơ hoa (gồm 6 vở kịch ngắn, Nhà xuất bản Đời nay, 1941) *Ghen* (kịch dài, đăng báo Tinh hoa, 1937; diễn tại Nhà hát Lớn Hà Nội đêm 13 tháng 3 năm 1947; Nhà xuất bản Nguyễn Du in thành sách, 1942) Ngã ba** (kịch dài, đăng báo Thanh nghị, 1943)
  • Thằng cuội ngồi gốc cây đa (kịch ngắn đăng báo báo Thông tin, 1944) *Trở về (kịch ngắn, Chính trị cục xuất bản, 1949)
  • Phương pháp viết kịch (giáo trình, Nhà xuất bản Minh Đức, 1950) *Đi tìm chủ từ trong vài đoạn văn "Đoạn trường tân thanh" (Hội Văn hóa Việt Nam xuất bản, 1949).

Ngoài ra, ông còn có một ít bài thơ, một ít bài văn xuôi nói về quan niệm sáng tác, và hai bài ký ngắn: "Hai sườn Tam đảo" (bài ký, đăng trên tạp chí Văn nghệ, 1948), "Hạ đồn Dóm" (bài ký, đăng trên tạp chí Văn nghệ, 1949).

Dịch thuật

Với bút danh Tuấn Đô, ông đã dịch một số kịch và tiểu thuyết:

  • Lão hà tiện (L'Avare của Molière)
  • Trưởng giả học làm sang (Le Bourgeois gentilhomme của Molière)
  • Đỏ và đen (Le Rouge et le Noir của Stendhal)
  • Tuyển tập kịch Musset (Alfred de Musset)
  • Hài kịch Shakespeare, tập I
  • Gargantua và Pantagruel ( Gargantua et Pantagruel của François Rabelais)
  • Tuyển tập kịch Henrik Ibsen,...

Thành tựu nghệ thuật

Đoàn Phú Tứ là một trong số ít người đi đầu (về sáng tác cũng như về trình diễn) trong lịch sử kịch nói Việt Nam thời non trẻ.

Về nội dung tư tưởng, có thể chia kịch của ông thành hai xu hướng chính: Tình yêu (tiểu biểu là 2 tập: Những bức thư tìnhMơ hoa) và triết lý (tiểu biểu là 2 tập: Ngã ba, Thằng cuội ngồi gốc cây đa). Tuy nhiên hai xu hướng này không hoàn toàn tách biệt, vì trong kịch tình yêu ít nhiều đều có yếu tố triết lý, và ngược lại... Về phương diện nghệ thuật, nói chung kịch bản của ông có kịch tính cao, nhân vật có bản sắc, bố cục chặt chẽ...Ngoài ra, tuy ít làm thơ, nhưng ông cũng nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam trong phong trào Thơ mới với bài thơ "Màu thời gian" . Với thi pháp đặc sắc, cùng với thi tứ chân thành mà kín đáo, bài thơ đã được nhiều người tán thưởng. Trích thi phẩm:

:''...Màu thời gian không xanh :''Màu thời gian tím ngát :''Hương thời gian không nồng :Hương thời gian thanh thanh...

Bài thơ này đã được ít nhất là 2 nhạc sĩ phổ nhạc: Nguyễn Xuân Khoát phổ năm 1942, và Phạm Duy phổ năm 1971.

Đường phố

Hiện nay, tại phường An Lạc A, Thành phố Hồ Chí Minh và phường Liên Chiểu, Đà Nẵng có đường phố mang tên Đoàn Phú Tứ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Đoàn Phú Tứ** (1910 - 1989) là một nhà soạn kịch, nhà thơ, dịch giả Việt Nam nổi danh từ thời tiền chiến. Khi viết, ông ký tên thật hoặc các bút danh: **Ngộ Không,
nhỏ|300x300px| Bức tranh _Phu tù tại Babylon_ - [[người Do Thái bị bắt làm phu tù từ Canaan đến Babylon, do hoạ sĩ Pháp James Tissot vẽ vào năm 1896.]] nhỏ|Trục xuất người Do Thái
**Liên đoàn Phụ nữ Quốc tế vì Hòa bình và Tự do** (tiếng Anh: _Women's International League for Peace and Freedom_, viết tắt là WILPF) được thành lập năm 1915, là tổ chức hoà bình
** Đoan Mộc Tứ ** (; 520–459 TCN),, người Hoa Hạ, họ Đoan Mộc, sống vào thời kỳ cuối Xuân Thu , người nước Vệ (huyện Tuấn, Hạc Bích, tỉnh Hà Nam), tự ** Tử
**Tự Lực văn đoàn** (chữ Hán: , tiếng Pháp: ) là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách
Thành lập vào ngày 04/02/2008, là một thành viên của Tập đoàn Phú Cường, hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và phát triển bất động sản.Phú Cường Kiên Giang thành lập vào ngày 04/02/2008,
Thành lập vào ngày 04/02/2008, là một thành viên của Tập đoàn Phú Cường, hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và phát triển bất động sản.Phú Cường Kiên Giang thành lập vào ngày 04/02/2008,
Thành lập vào ngày 04/02/2008, là một thành viên của Tập đoàn Phú Cường, hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và phát triển bất động sản.Phú Cường Kiên Giang thành lập vào ngày 04/02/2008,
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiế.ng, trúng phong co cứng bạiliệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được dùng
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
Công dụng :Người ta thường dùng tr.ị cảm gió lạnh mất tiếng, trúng phong co cứng bại liệt, đau tim do huyết ứ và các bệnh phong ở đầu mặt. Hạt phụ tử cũng được
MÔ TẢ SẢN PHẨMKem Nền Che Phủ Tự Nhiên HD Dung tích: 30ml - Tự nhiên Catrice thuộc công ty mẹ là tập đoàn Cosnova (Đức). Công ty Cosnova có 2 nhãn hàng là ESSENCE
Thành lập vào ngày 04/02/2008, là một thành viên của Tập đoàn Phú Cường, hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và phát triển bất động sản.
Bước sang những năm 40 của thế kỷ XX, khi Phong trào Thơ Mới rơi vào bế tắc, khủng hoảng thì đúng lúc này, nhóm Xuân Thu xuất hiện như một sự tiếp nối mang
**Phú Thăng** (sinh ngày 4 tháng 12 năm 1958) là một diễn viên người Việt Nam. Ông được Nhà nước Việt Nam phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú (NSƯT) năm 2019. ## Tiểu sử
nhỏ|Nhà văn Mạnh Phú Tư **Mạnh Phú Tư** (1913-1959), tên thật là **Phạm Văn Thứ**, cùng chi với chi của tuyển thủ bóng đá nam quốc gia Phạm Như Thuần, quê ở xã Thanh Lang,
**Trận Điện Biên Phủ** (; ), còn gọi là **Chiến dịch Điện Biên Phủ**, là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu
nhỏ|phải|Chữ Doãn. **Doãn** là một họ của người ở vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc (chữ Hán: 尹, Bính âm: Yin) và Triều Tiên (Hangul: 윤, Romaja quốc ngữ:
**Ban Bí thư Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** còn được gọi **Ban Bí thư Trung ương Đoàn,** do Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
nhỏ|265x265px|Trụ sở Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh **Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh**, thường được gọi ngắn gọn là **Đoàn**, là một tổ chức chính trị – xã hội của thanh
**Đoàn** (chữ Hán: 段) là một họ của người châu Á. Họ này có mặt ở Việt Nam, ở Trung Quốc (chữ Hán: 段, Bính âm: Duàn), ở Triều Tiên và Miến Điện. Chữ Hán
**Sư đoàn 23 Bộ binh** là một trong 2 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn II và Quân khu 2 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là đơn vị đầu tiên
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
**Vòng vây Điện Biên Phủ** là quá trình diễn biến chiến sự từ tháng 1 đến đầu tháng 3, ngay trước khi Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra. Trong giai đoạn này, Quân đội
**Sư đoàn 22 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là một đơn vị cấp sư đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong 2 đơn vị chủ lực thuộc Quân
**Ngu Doãn Văn** (chữ Hán: 虞允文; ngày 14 tháng 12, 1110 – ngày 18 tháng 7, 1174), tự Bân Phủ (彬父), người Nhân Thọ, Long Châu , nhà văn hóa, nhà chính trị, tể tướng,
**Nguyễn Phú Trọng**, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương, từ trần vào hồi 13 giờ 38 phút, ngày 19 tháng 7 năm
**Phú Thọ** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Theo dữ liệu Sáp nhập tỉnh, thành Việt Nam 2025, Phú Thọ có diện tích là 9.361 km² (xếp thứ 15); dân số
**Đoàn Thị Điểm** (段氏點, 1705-1749), hiệu: **Hồng Hà Nữ Sĩ** (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng. Bà là tác giả tập _Truyền kỳ tân phả_ (chữ Hán), và tác giả của
**Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam** (tiếng Anh: **Vietnam National Industry - Energy Group,** tên giao dịch: **Petrovietnam**, tên viết tắt: **PVN**), là một tập đoàn năng lượng quốc gia
**Sư đoàn 308** hay **Đại đoàn Quân Tiên phong** trực thuộc Quân đoàn 12 là Sư đoàn bộ binh chủ lực được thành lập đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Thành lập
**Công Đoàn Đoàn kết** (tiếng Ba Lan: _Solidarność_, IPA:; tên đầy đủ: **Công đoàn Độc lập Tự trị "Đoàn kết"** — _Niezależny Samorządny Związek Zawodowy "Solidarność"_ ) là một liên minh công đoàn và là
**Đoàn Trọng Truyến** (15 tháng 1 năm 1922 – 8 tháng 7 năm 2009), Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân; nguyên Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Văn phòng
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn IV** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân – Lục quân – Không quân, là
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]]
Bản đồ các tỉnh thuộc **Quân khu III** **Quân đoàn III** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải
**Sư đoàn 5 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III và Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đơn vị
**Sư đoàn 2 Quảng - Đà**, còn gọi là "**Sư đoàn 2 Thép**" thời chiến tranh Việt Nam là sư đoàn bộ binh cơ động nổi tiếng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Được
**Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh** (viết tắt là **BCHTWĐ** hoặc **Trung ương Đoàn**) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
**Lữ đoàn công binh 550** hay **Đoàn Công binh N50** tiền thân là **Lữ đoàn Công binh 25** là một Lữ đoàn công binh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trụ sở của Lữ
**Tập đoàn Điện lực Việt Nam** (tên giao dịch quốc tế là _Vietnam Electricity_, viết tắt là **EVN** (Électricité du Vietnam) thuộc Bộ Công Thương là một doanh nghiệp nhà nước hạng đặc biệt của
**Công đoàn** (nghiệp đoàn, liên đoàn lao động) là một hiệp hội, tổ chức xã hội đại diện cho những người lao động, có mục đích duy trì hay cải thiện các điều kiện làm
**Sư đoàn 320**, còn gọi là **Sư đoàn Đồng Bằng**, là một sư đoàn chủ lực thuộc Quân đoàn 34, Quân đội nhân dân Việt Nam. Ban đầu có tên Đại đoàn, thành lập từ
**Đoàn Kỳ Thụy**
**段祺瑞**
x|}
**Ngô Bội Phu**
**吳佩孚**
x|}