✨Dinar Serbia

Dinar Serbia

Dinar là tiền tệ chính thức của Cộng hòa Serbia. Một dinar có giá trị bằng 100 para. Mã tiền tệ quốc tế của đồng dinar Serbia là 941. Dinar hiện tại gồm tiền giấy và tiền xu khắc họa chân dung nhân vật lịch sử Serbia, Ngân hàng Quốc gia Serbia và các di tích văn hóa Serbia.

Ngân hàng Quốc gia Serbia ( - NBS) chịu trách nhiệm phát hành, quyết định mệnh giá và đặc điểm hình dạng cơ bản, đưa tiền vào hoặc rút khỏi lưu thông. Ngân hàng cũng quản lý Viện Sản xuất tiền giấy và tiền xu tại Topčider là nơi in tiền giấy hoặc đúc tiền xu.

Đang lưu hành

Ngày 4 tháng 2 năm 2003, Hiến pháp Serbia và Montenegro được thông qua. Năm sau, quốc gia có tên mới là Liên minh Nhà nước Serbia và Montenegro ( - SCG), tên này được in trên tiền do Ngân hàng Quốc gia Serbia phát hành.

Năm 2003 là thời điểm các đồng xu đầu tiên được phát hành không mang tên hay biểu tượng Nam Tư. Năm 2003-2004, thay vì tên quốc gia hay quốc huy, tiền lại mang biểu tượng Ngân hàng Quốc gia Serbia. Từ năm 2005, sau khi có khuyến nghị đưa quốc huy Serbia lên tiền, tiền đã mang quốc huy và tên Serbia được đưa vào lưu hành trước cả khi Montenegro rút khỏi liên minh.

Từ 1 tháng 11 năm 2006, ký hiệu quốc tế theo tiêu chuẩn ISO 4217 được áp dụng cho đồng dinar. Ký hiệu chữ cái là RSD tương ứng với ký hiệu số 941. Theo tiêu chuẩn đó, hai chữ cái đầu tiên chỉ tên quốc gia: Cộng hòa Serbia ("R" — Republika, "S" — Serbia), còn chữ cái thứ ba chỉ tên đồng tiền ("D" — dinar). Trước đó, theo tiêu chuẩn ICC (Mã tiền tệ quốc tế), đồng dinar có mã số 891 và mã chữ cái thay đổi tùy thời kỳ: thời Liên bang SCG có ký hiệu CSD, Cộng hòa Liên bang Nam Tư là YUD, còn Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư là YUM.

Tiền giấy

Các giấy bạc dinar hiện đang lưu hành gồm:

  • 10 dinar: in hình Vuk Stefanović Karadžić, nhà cải cách ngôn ngữ Serbia và nhà sưu tập nghệ thuật dân gian Serbia;
  • 20 dinar: in hình Petar II Petrović Njegoš, tác gia Serbia, nhà lãnh đạo Montenegro;
  • 50 dinar: in hình Stevan Stojanović Mokranjac, nhà soạn nhạc Serbia, góp phần quan trọng khai sinh phong cách nghệ thuật âm nhạc dân tộc Serb;
  • 100 dinar: in hình Nikola Tesla, khoa học gia Serbia;
  • 200 dinar: in hình Nadežda Petrović, nữ họa sĩ Serbia đầu thế kỷ 20;
  • 500 dinar: in hình Jovan Cvijić, khoa học gia Serbia;
  • 1.000 dinar: in hình Đorđe Weifert, nhà công nghiệp Serbia và thống đốc danh tiếng nhất của Ngân hàng Quốc gia Serbia;
  • 2.000 dinar: in hình Milutin Milanković, khoa học gia Serbia;
  • 5.000 dinar: in hình Slobodan Jovanović, chính khách Serbia lớn nhất thế kỷ 20;

Ngày 24 tháng 3 năm 2003 đưa loạt giấy bạc mang biểu tượng Ngân hàng Quốc gia Serbia ra lưu hành, tờ đầu tiên có mệnh giá 1.000 dinar. Cùng năm 2003 phát hành thêm hai mệnh giá 100 và 5.000 dinar. Năm 2004 phát hành thêm tờ 500 dinar. Về cơ bản nguyên mẫu tiền giấy đã có từ năm 2000.

Tiền giấy mang nhãn hiệu Ngân hàng Quốc gia Nam Tư với chữ ký Thống đốc Mlađan Dinkić được lưu hành song song cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2006 rồi bị thu hồi và thay thế hoàn toàn bằng tiền giấy mang nhãn hiệu Ngân hàng Quốc gia Serbia. Ngoại trừ dấu này, các tờ tiền cũ và mới có thiết kế gần như giống nhau.

Giấy bạc đầu tiên in hình quốc huy Serbia là tờ 200 dinar phát hành ngày 2 tháng 7 năm 2005. Đây cũng là tờ tiền đầu tiên có hình phụ nữ cũng như áp dụng hình kinegram, màu sắc thay đổi và hình ảnh chuyển động tùy vào góc nhìn.

Giấy in tiền là loại giấy chuyên dụng từ sợi bông nguyên chất, đàn hồi, độ chắc cần thiết, độ dày không đổi và có âm thanh đặc trưng khi gấp. Những thành phần bảo vệ được thêm vào trong quá trình sản xuất giấy.

Thành phần bảo vệ gồm:

Hình ảnh mô tả

Tiền giả

Lượng lưu hành thời điểm tháng 6 năm 2016 lên tới 299,65 triệu tờ giấy bạc tương đương 168,65 tỷ dinar. Phổ biến nhất là tờ 1.000 dinar với số lượng 64.424.950 tờ. Thời điểm này cũng ghi nhận cứ 1 triệu tờ tiền thật thì có trung bình 10,1 tờ tiền giả, tức 26.540,2 dinar giả / 1 tỷ dinar. Các mệnh giá bị làm giả nhiều nhất là 2.000 (1.354 tờ), tiếp theo là 1.000 (970 tờ) rồi đến 500 dinar (521 tờ). Ba mệnh giá này chiếm tới 94,1% lượng tiền giả bị phát hiện.

Tính đến 31 tháng 12 năm 2017, có 331,06 triệu giấy bạc lưu hành tương ứng 197,93 tỷ dinar. Trung bình 17,6 tờ tiền giả / 1 triệu tờ, ứng với 36.006 dinar giả / 1 tỷ dinar. Trong năm 2017 phát hiện được 5.834 tờ tiền giả trị giá 7,12 triệu dinar. Các mệnh giá bị làm giả phổ biến là 1.000 (2.770 tờ ~ 47,48%), 2.000 (1.510 tờ ~ 25,88%) và 500 dinar (1.372 miếng ~ 23,5%) chiếm tới 96,9 % lượng tiền giả. Lượng tiền giả bị phát hiện năm 2017 ít hơn 5,5% so với năm 2016.

Đưa tiền giả vào lưu thông là phạm pháp và sẽ bị truy tố hình sự. Người dân được khuyên nếu nghi ngờ tiền giả thì không nên nhận nhằm giúp xác định nguồn gốc tiền giả đỡ khó khăn. Nếu đã nhận rồi và phát hiện hoặc nghi ngờ tiền giả, công dân có nghĩa vụ giao tờ tiền đó cho bất kỳ ngân hàng hoặc đơn vị tổ chức nào Bộ Nội vụ và nhận lại giấy chứng nhận tịch thu tạm thời. Tờ tiền khả nghi được gửi đến Ngân hàng Quốc gia để giám định. Ngân hàng Quốc gia sẽ thông báo kết quả cho ngân hàng yêu cầu giám định hoặc Bộ Nội vụ. Nếu giám định là giả mạo, NBS sẽ được quyền giữ lại. Người khai báo tiền giả có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại nhưng phải cung cấp bằng chứng xác đáng thì mới có khả năng thành công. Ngược lại, nếu giám định xác nhận tiền thật thì NBS phải trả lại.

Năm 2010, theo thanh khoản lưu thông định kỳ thường niên, các đồng 1, 2, 5, 10 và 20 dinar được đưa vào lưu thông giống như các đồng trước đó, ngoại trừ đồng 20 dinar có hình Đorđe Vajfert ở mặt trước.

Đúc tiền

Xưởng mỹ thuật tiền xu gồm một xưởng điêu khắc tạo hình và một xưởng khắc. Xưởng điêu khắc hiện thực hóa các giải pháp ý tưởng và sáng tạo hoàn chỉnh cho đến mô hình thạch cao. Xưởng khắc dùng mô hình thạch cao để tham chiếu thành các tiêu chuẩn sao chép chính xác về kích thước thực. Máy chuyên dụng sẽ thu nhỏ mô hình, gia công thêm độ lồi lõm thích hợp, các chi tiết được chạm khắc thủ công nhiều lần cho tinh xảo. Sau đó, mô hình mẫu được hoàn thiện cơ tính và xử lý nhiệt. Để đạt độ bền cần thiết, mẫu có thể phải gia cường trong chân không, giải phóng nhiệt trong lò đúc hoặc đánh bóng bề mặt cao độ, và dùng kỹ thuật dòng điện ganvanic để bảo hiểm cho đồng xu bằng bằng kỹ thuật mạ crom cứng sáng.

Xu được đúc bằng máy ép theo thành phần và khối lượng quy định. Máy đúc được 700 đồng xu mỗi phút, tức 300.000 đồng xu trong một ca sáng. Việc đếm số lượng, đóng gói và cân cũng được thực hiện bằng máy, trên những dây chuyền riêng.

Sản xuất tiền xu đắt gấp ba lần so với in giấy bạc cùng mệnh giá do chi phí nguyên liệu hợp kim.

  • Xu khắc hình Milutin Milanković năm 2009
  • Kỷ niệm 150 năm ngày sinh Đorđa Vajfert: 16 tháng 6 năm 2010. đã có khoảng 20 vua chúa, 15 lãnh chúa cùng hàng chục thành thị đúc tiền, tổng số lượng lên đến khoảng 350-400 loại tiền.

Đồng dinar là một trong những biểu tượng quan trọng nhất về nền độc lập và tư cách quốc gia của Serbia Trung cổ. Do rút vàng khỏi lưu thông, tiền Serbia Trung cổ đều được đúc bằng bạc giống như toàn bộ châu Âu. hoặc các thành phố lớn. Xưởng đúc tiền Serbia Trung cổ đầu tiên được đặt tại pháo đài Ras. Nơi đúc tiền (ceke) được chép trong văn bản hoặc trực tiếp trên đồng bạc thời vương quyền Serbia có tại Brskovo (dinar Brsk), Rudnik, Novi Brdo, Skopje, Prizren, Trepča, Arilje và Srebrnica.

Stefan Radoslav

Nghiên cứu trước đây cho rằng trưởng nam của Stefan I tức vua Stefan Radoslav (1227-1234) là vị quân chủ Serbia đầu tiên tự đúc tiền riêng. Hình ảnh đại diện này phổ biến suốt thời vương quyền và ít dần đi về sau. Biểu tượng này có nguồn gốc Đông La Mã thường khắc họa vua chúa và thánh bảo trợ ngai vàng.

Đồng xu được đúc ở Brskovo trong trũng Tara gần Mojkovac, phỏng theo đồng grosso của Venezia.

Tự tuyên bố lên ngôi sa hoàng Serbia và Hy Lạp không thông qua hoàng đế và thượng phụ Đông La Mã, Dušan khẳng định tính chính danh và thẩm quyền của mình qua đồng tiền phát hành

Dubrovnik đúc đồng dinar đầu tiên có tới 47 đồng tiền khác.

Đồng dinar Dubrovnik lấy theo mẫu đồng ducat Venezia, một mặt có hình Chúa Giêsu trong mandorla.

Bên cạnh đó, Dubronik còn đúc đồng poludinar (9 loại), đồng dinarić (8 loại). Tiền đúc thời despot có trọng lượng nhỏ nhất. Ngày nay, loại tiền này được gọi là obola và còn được phổ biến với cái tên maljušniki.

Một lượng lớn các loại tiền xu đã được đúc, trên đó là sự kết hợp nhiều mẫu biểu tượng khác nhau. Vào giai đoạn đầu, đa số tiền có hình Chúa Giêsu trong mandorla phỏng theo mẫu tiền Dubrovnik, rồi dần chuyển sang những hình ảnh thế tục theo tiền Trung Âu.

Khối lượng tiền thời despot dao động từ 0,15 đến 1,40 gam. Đồng tiền cơ bản tại Serbia là dinar được lưu hành đồng thời đồng gros, sequin, perperi và ducat của Venezia, rồi đồng bạc Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở nên phổ biến.

Stefan Lazarević

Stefan Lazarević (hoàng thân 1389—1402, despot 1402—1427) nhận tước despot từ hoàng đế Đông La Mã. Năm 1403/4, ông chuyển kinh đô tới Beograd là thành được Sigismund của Hungary ban cho.

Các mệnh giá được in là 1, 5, 10, 50 và 100 dinar, mỗi mẫu 1.500 tờ.

Vương quốc Serbia

Serbia vẫn tiếp tục sử dụng tiền nước ngoài cho đến khi thành lập Ngân hàng Quốc gia. Cho đến thời điểm đó, quốc nội Serbia chỉ thực hiện thanh toán bằng tiền xu, chỉ những giao dịch với nước ngoài mới dùng đến giấy bạc ngoại quốc. Ngân hàng Quốc gia Serbia thành lập ngày 2 tháng 7 năm 1884 là tiền đề cho việc phát hành tiền giấy. Serbia cũng không có kinh nghiệm trong lĩnh vực này nên Ngân hàng quyết định mời chuyên gia nước ngoài và gửi yêu cầu tới Ngân hàng Nhân dân Bỉ được coi là một trong những ngân hàng có việc phát hành tiến giấy tổ chức tốt nhất khi ấy. Ngân hàng Bỉ đã gửi quản lý kế toán Charles Boschman đến. Vì hoạt động của Ngân hàng Quốc gia bắt đầu phụ thuộc vào việc phát hành những đồng tiền đầu tiên nên Bosman đảm bảo với ngân hàng Bỉ chuyển cho Serbia 100 franc làm mẫu dự trữ. Bộ trưởng Tài chính đã yêu cầu chủ tịch Hội Mỹ thuật Beograd Stefan Katchenski thông tin cho các họa sĩ thiết kế biểu tượng Serbia thay cho mẫu trên giấy bạc Bỉ. Ngân hàng Quốc gia đã nhận được sáu bản vẽ nhưng không rõ tác giả cũng như cuối cùng đề xuất của ai được chấp nhận. Dù chỉ là giấy bạc tạm thời nhưng phải đến 5 tháng 2 năm 1921 mới hết hạn, và vẫn lưu hành thực tế cho đến Thế chiến thứ nhất. Tổng cộng 50.000 tờ được đưa vào lưu hành, không ghi nhận tờ tiền này bị làm giả.

Với giấy bạc 50 dinar, Ngân hàng phát động cuộc thi theo tinh thần lấy mẫu chủ đạo của các ngân hàng châu Âu đã có, bổ sung các chi tiết đời sống người Serb (đặc biệt người lao động). Trong số 10 bức vẽ đề xuất trong và ngoài nước, tác phẩm của họa sĩ Đorđe Krstić đã được thông qua. Trên tiền có ghi ngày 1 tháng 11 năm 1885. Tiền được in tại Nhà in Quốc gia Beograd, tổng lượng phát hành là 800.000 tờ.

Mặt trước viết bằng tiếng Serb chữ Kirin, mặt sau bằng tiếng Pháp. Chính giữa phần trên mặt trước là hình vẽ bán thân vua Milan Obrenović, chính giữa phần dưới là quốc huy Vương quốc Serbia bên dưới có đóng khung số "10". Bên trái là hình vẽ người phụ nữ mặc trang phục dân tộc cầm liềm vác bó lúa, bên phải là người lính Serbia cầm súng trường. Bên dưới người phụ nữ là khung oval với dòng chữ "Luật 23 tháng 9 năm 1885". Tờ tiền có dấu của Thống đốc Filip Hristić và một thành viên Hội đồng quản trị, số sêri (lần phát hành đầu là 2 chữ số, các lần sau là một chữ cái Kirin ở trước hai chữ số), cũng như số thứ tự trong sêri. Việc thêm dấu và số sêri được thực hiện ngay trong ngân hàng.

Khi Ngân hàng Quốc gia Serbia cố gắng duy trì độ tin cậy về giá trị đồng dinar thông qua chính sách phát hành tốt, ngay cả trong Thế chiến thứ nhất, thì lại phải đối mặt với vấn đề không đủ tiền trong lưu thông.

Giấy bạc thời chiến 50 dinar được phát hành lần đầu ngày 25 tháng 3 năm 1915 tại Paris, do họa sĩ Beta Vukanović thực hiện. Tổng cộng phát hành 1.025.000 tờ và không ghi nhận tờ tiền giả nào. Tiền màu tím đậm có kích thước 158×89 mm. Mặt trước sử dụng chữ Kirin còn mặt sau bằng tiếng Pháp. Trên tiền có ghi Luật 23 tháng 9 năm 1885 thay vì Luật 31 tháng 3 năm 1904 là cơ sở pháp lý để phát hành tiền giấy cũng như luật hình sự liên quan. Thêm nữa, do làm vội, màu sắc tiền xấu và có nhiều sai sót trong chữ viết, Dân chúng lên tiếng phản đối rất nhiều, do tiền xấu quá nên bị họ gọi là "hóa đơn chiến tranh" hay "bệnh nốt"; nên Ngân hàng Quốc gia Serbia phải dừng đưa vào lưu thông và thu hồi ngay trong năm ấy. Phải sau khi chiến tranh kết thúc, tờ tiền 5 dinar mới được đưa vào lưu thông và hết hạn ngày 18 tháng 7 năm 1935.

Cuối năm 1915, vương quốc Serbia bị Áo-Hung và Bulgaria chia cắt, còn Đức kiểm soát tuyến đường sắt Smederevo-Đevđelija và quyền khai thác mỏ ở miền đông Serbia. Ngày 1 tháng 4 năm 1916, các nước thành lập chính quyền quân sự trên vùng lãnh thổ chiếm đóng. Lãnh thổ do Áo-Hung chiếm giữ được tổ chức thành một Tổng cục (Chính phủ) quân sự Hoàng gia có trụ sở tại Beograd, còn Bulgaria chia thành hai phần do quân đội giám sát: Moravia có trụ sở tại Niš, Macedonia có trụ sở ở Skopje.

Tại các vùng chiếm đóng, để không phải phát hành tiền giấy mới, quân chiếm đóng sử dụng ngay tiền tệ chính quốc hoặc tiền dinar bị đóng dấu.

Năm 1943, chính quyền Vương quốc Nam Tư lưu vong có in một loạt dinar mới nhưng không đưa vào lưu thông.

Thời Đức chiếm đóng 1941-1944

Năm 1941, vương quốc Nam Tư bị Đức chiếm đóng và chia cắt. Năm 1942, những đồng tiền khác được lưu hành trên các vùng lãnh thổ, chỉ còn lại Serbia dùng đồng dinar.

Trong tất cả các vùng Nam Tư bị chiếm đóng, đồng dinar vẫn là đơn vị tiền tệ cơ bản duy nhất ở Serbia. Tiền giai đoạn bị chiếm đóng được gọi là "tiền Nedić". Dòng tiền được thiết lập bằng cách in lại số tiền dự trữ của Vương quốc Nam Tư, từ kho của ngân hàng.

Chính quyền chiếm đóng lên kế hoạch quy đổi dinar Nam Tư sang dinar của Serbia ấn định từ 21 tháng 11 năm 1941. Tuy nhiên, thực tế diễn ra từ 4 tháng 6 năm 1941 đến 2 tháng 4 năm 1942. Sau đó họ cũng chấp thuận đổi tiền trong suốt thời chiếm đóng, chủ yếu dành cho người Serb và Slovene tị nạn, hoặc bị lưu đày từ những vùng khác tới, tù nhân Nam Tư gửi tiền về nhà hoặc được thả. Bằng cách này, 34,9% tiền giấy Nam Tư đã hiện diện tại Serbia bị chiếm đóng.

Đầu năm 1942 có tổ chức một cuộc thi ẩn danh sáng tác phác thảo cho tiền giấy dinar Serbia mới.

Các tờ tiền mới có hai hình tượng mới không có trên các tờ tiền trước đó: Hầu hết các khu dân cư quanh mỏ bạc thời trung cổ bị tàn phá khi quân thổ xâm lược, nhiều khu khác dần biết mất theo thời gian và rơi vào quên lãng. Dấu tích chỉ còn trên các văn bản lưu lại hoặc những phần tàn tích tại đó. Những tuyến đường kết nối mỏ với các trung tâm giao thương mất đi hoặc trở nên hoang phế.

Cho đến thế kỷ 19, một lượng lớn các đồng tiền xu ngoại quốc được lưu hành tại Serbia. Quân Thổ cũng đặt một số cơ sở đúc tiền tại đây. Tiền xu Thổ có chữ Ả Rập riêng. Đế quốc Ottoman dùng đồng para (từ tiếng Ả Rập bara có nghĩa là bạc) là tiền tệ cơ bản. Đồng bạc para được đúc năm 1623, tương đương với 3 đồng akce hoặc aspra. Tiếp theo là pjaster hay kurush, thường gọi là grosh, tương đương với 40 para. Tên gọi này vẫn dùng đến ngày nay, tương ứng với 0,01 dinar.

Thế kỷ 19 dưới thời Karađorđe và thân vương Miloš, một số lượng lớn các loại tiền xu khác nhau từ Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Âu được lưu hành tại Serbia. Cho đến năm 1869, có tới 43 loại tiền xu ngoại quốc lưu hành, cụ thể 10 đồng vàng, 28 đồng bạc và 5 loại bằng đồng. Giá trị tiền tệ được xác định hai lần trong năm, vào Ngày Thánh George và Ngày Thánh Mitrov. Đồng tiền chính thức là grosh, cũng gồm hai loại "grosh chợ" dùng để thanh toán mua bán hàng hóa và "grosh thuế" cao gấp đôi "grosh chợ" dùng để đóng thuế.

Luật Hatsherif năm 1830 và phần bổ sung năm 1833 công nhận Serbia là một thân vương quốc nằm dưới sự cai trị của Ottoman cùng với một số quyền tự trị nhất định. Luật không đề cập đến đồng tiền riêng, nhưng rõ ràng là không bị cấm. Sau hơn bốn thế kỷ, Serbia lại bắt đầu đúc đồng tiền riêng. Biết tin tiền đến nơi sau khi thân vương Mihailo đã qua đời, Viên ngừng giao hàng để chờ quyét định của phó vương Milan Obrenović vẫn đang vị thành niên. Diễn biến tiếp theo cho thấy, vì có đồng tiền này, mà tiền Áo được ngừng nhập thêm về lưu thông tại Serbia từ tháng 2 năm 1869, đến tháng 10 năm 1870 thì dừng hẳn để trả về cho Áo. Đồng tiền mới cũng rút khỏi lưu thông năm 1898 để thay bằng đồng bạc khác thông qua năm 1890.

Ngày 30 tháng 11 (12 tháng 12) năm 1873, đồng dinar được tuyên bố là tiền tệ chính thức thay thế cho ducat ở Serbia theo Công ước tiền tệ Paris năm 1865. Thân vương ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Tài chính Čedomilj Mijatović trình đề xuất tại phiên họp Quốc hội 1873. Lúc đầu, nhiều cái tên được đưa ra như stoparac, stopar, five-grošić, franc hoặc dinar Serbia, và cuối cùng dinar được chọn theo tên tiền tệ trung cổ. Luật cũng thông qua các đồng bạc mệnh giá 5, 2, 1 và nửa dinar, dự tính tổng cộng 6 triệu dinar, nhưng thực tế chỉ có 3,6 triệu được thực hiện.

Lần đầu tiên, chính phủ Serbia cân nhắc thành lập viện phát hành tiền nhưng phải bỏ dở do thiếu nguồn lực, đồng thời vấp phải phản đối từ những người chuyên cho vay tín dụng tại Beograd.

Năm 1875, đồng bạc dinar mới ra đời mang hình ảnh thân vương Milan Obrenović và dòng chữ "МИЛАН М. ОБРЕНОВИЋ IV КЊАЗ СРПСКИ" (). Các 50 para, 1 và 2 dinar được đúc tại Xưởng đúc hoàng gia Đế quốc ở Viên, là những đồng tiền Serbia đẹp nhất và hiếm nhất. Đồng tiền có độ mịn, trọng lượng và kích thước giống như đồng franc ở các nước thuộc Liên minh Tiền tệ Latinh. Đồng 50 para bằng bạc nặng 2,5 gam đường kính 18 mm, đồng 1 dinar nặng 5 gam đường kính 23 mm, còn đồng 2 dinar nặng 10 gam đường kính 27 mm. Cả ba đồng đều có tỷ lệ bạc 83,5%, còn lại là đồng thêm vào để tăng độ bền. Anton Scharff khắc khuôn đồng 50 para và 2 dinar, còn Friedrich Leisek phụ trách đồng 1 dinar. Đợt tiền này chính thức lưu thông trong 30 năm tiếp theo, nhưng nhanh chóng biến mất khỏi thị trường trước khi hết hạn chính thức.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Dinar** là tiền tệ chính thức của Cộng hòa Serbia. Một dinar có giá trị bằng 100 **para**. Mã tiền tệ quốc tế của đồng dinar Serbia là **941**. Dinar hiện tại gồm tiền giấy
**Kosovo** ( ; ) là một lãnh thổ tranh chấp và quốc gia được một bộ phận quốc tế công nhận tại Đông Nam Âu, tuyên bố độc lập khỏi Serbia vào năm 2008 với
thumb|right|Các quốc gia có màu xanh đậm hiện đang sử dụng đồng dinar. Các quốc gia có màu xanh nhạt trước đây đã sử dụng đồng dinar. Các quốc gia [[Nam Tư cũ xuất hiện
Danh sách này bao gồm các loại tiền tệ ở hiện tại và trong quá khứ. Tên địa phương của tiền tệ được sử dụng trong danh sách này kèm theo tên quốc gia hoặc
**Tu viện Ljubostinja** () là một tu viện nằm ở làng Prnjavor tả ngạn sông Zapadna Morava, cách Trstenik 4 km về phía bắc. Tu viện thuộc sở hữu giáo phận Kruševac của Giáo hội Chính
Danh sách này chứa 180 loại tiền tệ chính thức được lưu hành trên thế giới, thuộc 193 quốc gia là thành viên của Liên Hợp Quốc, 2 nhà nước quan sát viên của Liên
**Luka Jović** (, ; sinh ngày 23 tháng 12 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Serbia chơi ở vị trí tiền đạo cắm cho câu lạc bộ AC Milan
**Nền kinh tế của Kosovo** là một nền kinh tế đang chuyển dịch. Kosovo từng là một phần của Liên Bang Nam Tư cũ với việc thừa hưởng những cơ sở hạ tầng hiện đại
Trong ngân hàng, thuật ngữ **ngân hàng quốc gia** mang nhiều ý nghĩa: * đặc biệt là ở các nước đang phát triển, một ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước * một ngân hàng
nhỏ|Siêu lạm phát ở Argentina **Siêu lạm phát** là tình trạng lạm phát cao, có tác động phá hoại nền kinh tế nghiêm trọng. Thông thường, tốc độ tăng giá chung ở mức 3 chữ
**Pavle Đurišić** () (Podgorica, 9 tháng 7 năm 1909 – tháng 4 năm 1945) là sĩ quan người Serb đến từ Montenegro trong Quân đội Hoàng gia Nam Tư. Ông là một vojvoda (đốc quân)
**Montenegro** (tiếng Montenegro bằng chữ Kirin: _Црна Гора_; chữ Latinh: **_Crna Gora_**; phát âm IPA: , phiên âm Tiếng Việt: _Môn-tê-nê-grô_) (trong tiếng Montenegro có nghĩa là "_Ngọn núi Đen_") là một quốc gia tại
**Bang liên** hay **liên hiệp quốc gia** (tiếng Latinh: _confoederare_; ) là liên minh bền lâu được cấu thành bởi các đơn vị chính trị nhằm hướng đến một hành động chung xét trong tương
phải|nhỏ|310x310px|Thân vương quốc Galicia-Volyn trên bản đồ Đông Âu **Thân vương quốc Galicia-Volyn** (1199–1392) (tiếng Nga: _Га́лицко-Волы́нское кня́жество_, , , tiếng Ukraina: _Галицько-Волинське князівство_) là một Thân vương quốc Nga phía tây nam dưới thời
430x430px|thumb|Từ trái, theo chiều kim đồng hồ: [[O. J. Simpson từng có một vụ án giết chết Nicole Brown Simpson và Ron Goldman trong năm ngoái; Một trận động đất gây thiệt hại ở Kobe,