✨Điểm kỳ dị công nghệ
Điểm kỳ dị kỹ thuật là điểm quy chiếu giả định xảy ra khi nền công nghệ phát triển gia tốc tạo ra hiệu ứng phi mã khiến cho trí thông minh nhân tạo sẽ vượt qua trí tuệ và khả năng khống chế của con người. Những khả năng của một trí thông minh như vậy là bất khả tri, một khi xuất hiện kỳ dị kỹ thuật các sự kiện tiếp sau đó sẽ không thể dự đoán và tiên lượng được. Chính vì thế điểm kỹ dị kỹ thuật còn được coi là một chân trời sự kiện mà sau thời điểm này các sự kiện sẽ không thể tiên đoán hay hiểu được. Những người đề xuất ra điểm kỳ dị thường phát biểu rằng một sự "bùng nổ trí thông minh", nơi những siêu trí thông minh thiết kế liên tiếp ra những bộ óc ngày càng mạnh, có thể diễn ra rất nhanh chóng và sẽ không dừng lại cho tới khi các khả năng nhận thức của nó vượt quá khả năng của con người.
Thuật ngữ này đã được tác gia về khoa học viễn tưởng Vernor Vinge quảng bá, ông cho rằng trí thông minh nhân tạo, sự nâng cao khả năng sinh học con người, hay các giao diện não-máy tính có thể là những nguyên nhân dẫn tới kỳ dị. Thuật ngữ riêng "kỳ dị" như một sự miêu tả về một hiện tượng tăng tốc kỹ thuật gây ra một kết quả không thể dự đoán trong xã hội đã được nhà toán học John von Neumann đặt ra. Vào giữa những năm 1950 ông đã phát biểu về "sự tiến bộ chưa từng có ngày càng mạnh của kỹ thuật và những thay đổi trong phương thức cuộc sống con người, dẫn tới sự xuất hiện của một số kỳ dị cốt yếu trong lịch sử của cuộc đua mà vượt ngoài nó những công việc của con người, như chúng ta biết, sẽ không thể tiếp tục." Khái niệm này cũng đã được những người theo thuyết vị lai như Ray Kurzweil ủng hộ, ông đã nêu việc Neumann sử dụng thuật ngữ này trong lời nói đầu cho cuốn sách kinh điển "The Computer and the Brain" của Neumann.
Một số nhà phân tích cho rằng kỳ dị sẽ xảy ra ở một thời điểm nào đó trong thế kỷ 21, dù những con số ước tính của họ có khác biệt.
Các khái niệm căn bản
[[Ray Kurzweil|Kurzweil viết rằng, vì những sự chuyển đổi mô hình, một khuynh hướng phát triển theo cấp số nhân sẽ mở rộng định luật Moore từ mạch tích hợp tới những những transistor, ống chân không, relay, và các máy tính cơ điện trước đó. Ông dự đoán rằng sự phát triển theo cấp số nhân sẽ tiếp tục diễn ra, và rằng trong vài thập kỷ khả năng tính toán của mọi máy tính sẽ vượt quá trí não của con người, và trí thông minh nhân tạo cũng sẽ xuất hiện ở khoảng thời gian đó.]]
Nhiều người trong hầu hết những tác gia được công nhận về sự kỳ dị, như Vernor Vinge và Ray Kurzweil, định nghĩa khái niệm trong những giới hạn của việc tạo ra siêu trí thông minh bằng kỹ thuật, và cho rằng con người hiện tại rất khó hay không thể dự đoán một hậu kỳ dị sẽ như thế nào, bởi những khó khăn trong việc tưởng tượng những dự định và khả năng của các thực thể siêu thông minh.
Sự phát triển của máy tính đã bắt đầu có khả năng "nhận thức" và trí thông minh siêu phàm.
Các mạng máy tính lớn (và những người dùng liên kết của chúng) có thể "bắt đầu có nhận thức" như một thực thể thông minh siêu phàm.
Các giao diện máy tính/con người có thể quá gắn kết tới mức người dùng có thể được coi một cách hợp lý là trí thông minh siêu phàm.
Khoa học sinh học có thể tìm ra những cách thức để cải thiện trí tuệ tự nhiên của con người.
Vinge tiếp tục bằng cách dự đoán rằng những trí thông minh siêu phàm sẽ có khả năng tăng cường trí tuệ của chúng nhanh hơn so với loài người là thực thể tạo ra chúng. "Khi trí thông minh cao hơn con người đảm nhiệm việc phát triển," Vinge viết, "sự phát triển đó sẽ nhanh hơn rất nhiều." Chu kỳ phản hồi này của trí thông minh tự cải thiện, ông dự đoán, sẽ tạo ra một lượng lớn tiến bộ công nghệ trong một giai đoạn ngắn, và rằng việc tạo ra trí thông minh siêu phàm đại diện cho sự tan rã khả năng định hình tương lai của loài người. Ông cho rằng các tác gia sẽ không thể viết về những nhân vật thực tiễn vượt quá trí thông minh của con người, bởi những ý tưởng của một trí thông minh như vậy ở ngoài tầm thể hiện của con người. Vinge gọi sự kiện này là "sự Kỳ dị".
Cuốn sách khoa học thường thức The Spike (1997) của Damien Broderick đã lần đầu tiên điều tra chi tiết kỳ dị kỹ thuật.
Năm 2000, Bill Joy, một chuyên gia công nghệ nổi bật và người sáng lập Sun Microsystems, đã lên tiếng lo ngại về những nguy hiểm tiềm tàng của kỳ dị.
Năm 2005, Ray Kurzweil đã xuất bản The Singularity is Near, đưa ý tưởng kỳ dị tới truyền thông đại chúng cả qua việc tiếp cận cuốn sách và một chiến dịch quảng cáo bao gồm cả một lần xuất hiện trên The Daily Show with Jon Stewart. Cuốn sách gây ra nhiều tranh cãi kịch liệt, một phần bởi những dự đoán không tưởng của Kurzweil trái ngược hoàn toàn với những người khác, những hình ảnh đen tối về những khả năng của kỳ dị. Kurzweil, những lý thuyết của ông, và những tranh cãi xung quanh nó là chủ đề của bộ phim tài liệu của Barry Ptolemy Transcendent Man.
Năm 2007, Eliezer Yudkowsky đề xuất rằng nhiều định nghĩa khác nhau đã được gán cho "kỳ dị" không tương thích lẫn nhau chứ không phải hỗ trợ cho nhau. Ví dụ, Kurzweil ngoại suy những phương hướng kỹ thuật hiện tại vượt qua sự xuất hiện của một trí thông minh nhân tạo có khả năng tự cải thiện hay siêu trí thông minh, mà Yudkowsky cho rằng thể hiện một sự căng thẳng với cả đề xuất về sự tiến bộ không liên tục trong trí thông minh của I. J. Good và luận điểm của Vinge về khả năng không thể dự đoán.
Năm 2008, Robin Hanson (lấy "kỳ dị" để chỉ một sự gia tăng mạnh trong số mũ của tăng trưởng kinh tế) liẹt kê cách mạng nông nghiệp và cách mạng công nghiệp như những kỳ dị trong quá khứ. Ngoại suy từ những sự kiện trong quá khứ đó, Hanson đề xuất rằng kỳ dị kinh tế tiếp theo sẽ làm tăng trưởng kinh tế trong khoảng 60 tới 250 lần. Một sự cải tiến cho phép sự thay thế toàn bộ lao động loài người có thể dẫn tới sự kiện này.
Năm 2009, Kurzweil và nhà sáng lập X-Prize Peter Diamandis thông báo việc thành lập Singularity University, và tuyên bố nhiệm vụ của nó là "tập hợp, đào tạo và truyền cảm hứng cho một lực lượng lãnh đạo những người cố gắng để hiểu và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của những công nghệ có khả năng tiến bộ nhằm giải quyết những thách thức lớn của nhân loại." Được hỗ trợ tài chính bởi Google, Autodesk, ePlanet Ventures, và một nhóm các nhà lãnh đạo ngành công nghiệp công nghệ, Singularity University có trụ sở tại Ames Research Center của NASA ở Mountain View, California. Tổ chức phi lợi nhuận này tiến hành một chương trình đào tạo mười tuần hàng năm trong mùa hè về mười công nghệ và vấn đề liên quan, và một loạt các chương trình thực thi trong suốt cả năm.
Năm 2010, Aubrey de Grey áp dụng thuật ngữ "Methuselarity" để chỉ thời điểm ở đó công nghệ y tế phát triển quá nhanh tới mức tuổi thọ con người gia tăng hơn một tuổi mỗi năm. Năm 2010 trong "Apocalyptic AI – Visions of Heaven in Robotics, Artificial Intelligence, and Virtual Reality" Robert Geraci để xuất một miêu tả của "cyber-theology" đang phát triển có cảm hứng từ những nghiên cứu Kỳ dị. Một cuốn sách khám phá một số chủ đề đó là cuốn Holy Fire năm 1996 của Bruce Sterling, đưa ra định đề rằng một Methuselarity sẽ trở thành một chính phủ trong tay những người có tuổi.
Năm 2011, Kurzweil lưu ý những khuynh hướng đang hiện hữu và kết luận rằng kỳ dị đang ngày càng có nhiều khả năng xảy ra vào khoảng năm 2045. Ông nói với tạp chí Time: "Chúng ta sẽ thành công trong việc thực hiện đảo ngược não bộ con người vào giữa thập niên 2020. Tới cuối thập kỷ đó, các máy tính sẽ có khả năng thông minh tương đương não bộ con người."
Bùng nổ trí thông minh
Ý tưởng về một sự "bùng nổ trí thông minh" lần đầu được miêu tả như vậy bởi , người dự đoán về những tác động của những cỗ máy siêu nhân:
Hầu hết các biện pháp được đề xuất để tạo ra các trí tuệ siêu nhiên hay transhuman rơi vào một trong hai tiêu chí, khuếch đại trí thông minh của trí não con người và trí thông minh nhân tạo. Có rất nhiều biện pháp được suy đoán để tạo ra sự gia tăng trí thông minh, và bao gồm kỹ thuật y sinh, kỹ thuật gien, các loại thuốc hưng trí, những hỗ trợ trí thông minh nhân tạo, các giao diện não bộ-máy tính trực tiếp và lưu trữ thông tin não bộ (mind uploading). Sự tồn tại của nhiều con đường tới một sự bùng nổ trí thông minh khiến một kỳ dị càng dễ xảy ra hơn; nếu một kỳ dị không xảy ra tất cả các biện pháp đó đều thất bại.
hoài nghi về khuếch đại trí thông minh con người, viết rằng một khi một người đã hái hết "những trái cây dưới thấp" bằng các phương pháp đơn giản để gia tăng trí thông minh loài người, những cải thiện tiếp theo sẽ trở nên ngày càng khó để tìm kiếm. Dù có nhiều biện pháp được suy đoán để khuếch đại trí thông minh loài người, trí thông minh nhân tạo phi loài người (đặc biệt là hạt giống trí thông minh nhân tạo) là ý tưởng phổ biến nhất cho các tổ chức tìm kiếm việc đi tới một kỳ dị.
Một sự bùng nổ trí thông minh có xảy ra hay không sẽ phụ thuộc vào ba yếu tố. Đầu tiên, yếu tố tăng tốc, là những sự tăng cường trí thông minh mới được hiện thực bởi mỗi sự cải thiện trước đó. Ngược lại, khi trí thông minh trở nên tân tiến hơn, những tân tiến hơn nữa sẽ trở nên ngày càng phức tạp, có thể vượt quá ưu thế của trí thông minh đã gia tăng. Mỗi sự cải tiến phải có khả năng sinh ra ít nhất một hay nhiều cải tiến, theo trung bình, để kỳ dị có thể tiếp diễn. Cuối cùng, có vấn đề về một giới hạn trên phần cứng. Việc thiếu vắng máy tính lượng tử, cuối cùng các quy luật của vật lý sẽ ngăn cản bất kỳ sự cải tiến nào tiếp nữa.
Có hai sự độc lập logic, nhưng tăng cường lẫn nhau, những hiệu ứng gia tốc: những sự gia tăng ở tốc độ tính toán, và những cải tiến với thuật toán được sử dụng. Sự gia tăng tốc độ tính toán đã được tiên đoán bởi Quy luật Moore và dự đoán những cải tiến trong phần cứng, và khá tương thích với tiến bộ công nghệ trước đó. Mặt khác, hầu hết các nhà nghiên cứu trí thông minh nhân tạo tin rằng phần mềm quan trọng hơn phần cứng.
Những cải tiến về tốc độ
Đầu tiên là những cải tiến về tốc độ mà trí não có thể hoạt động. Dù là con người hay trí thông minh nhân tạo, phần cứng tốt hơn là gia tăng tốc độ cải tiến phần cứng trong tương lai. Quá đơn giản hóa, Định luật Moore cho rằng nếu sự nhân đôi tốc độ đầu tiên cần 18 tháng, lần thứ hai sẽ mất 18 tháng chủ quan; hay 9 tháng khách quan, sau đó, bốn tháng, hai tháng, và tiếp tục tới một kỳ dị về tốc độ. Một giới hạn trên về tốc độ cuối cùng cũng có thể chạm tới, dù không rõ nó sẽ cao tới mức nào. , trả lời cho Good, cho rằng giới hạn trên khá thấp;
Khó để so sánh trực tiếp phần cứng dựa trên silicon với những neuron. Nhưng lưu ý rằng tốc độ nhận thức của máy tính đang tiếp cận với những khả năng của con người, và rằng khả năng này dường như đòi hỏi 0.01% của khối lượng não. Phép loại suy này cho thấy rằng phần cứng máy tính hiện đại ở trong một vài bậc của tầm mức của mức độ mạnh như não người.