✨Viện Công nghệ California

Viện Công nghệ California

Viện Công nghệ California (tiếng Anh: California Institute of Technology, thường gọi là Caltech) là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở Pasadena, California, Hoa Kỳ. Caltech có sáu đơn vị thành viên, hướng trọng tâm vào các ngành khoa học và kỹ thuật và là 1 trong 10 đại học hàng đầu thế giới. Khuôn viên chính rộng 50 hecta, nằm cách trung tâm thành phố Los Angeles chừng 18 cây số về phía đông nam.

Ban đầu được Amos G. Throop thành lập như một trường dự bị và dạy nghề vào năm 1891, ngôi trường này đã thu hút các nhà khoa học nổi tiếng đầu thế kỷ 20 như George Ellery Hale, Arthur Amos Noyes, và Robert Andrews Millikan. Hệ đào tạo dự bị và dạy nghề xóa bỏ từ năm 1910 và trường có tên như ngày nay từ năm 1921. Năm 1934, Caltech được gia nhập Hiệp hội Viện Đại học Bắc Mỹ. Những cơ sở tiền thân của Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực của NASA sau này được thành lập trong khoảng từ 1936 đến 1943; ngày nay Caltech vẫn tiếp tục quản lý và vận hành phòng thí nghiệm này. Caltech là một trong số một nhóm nhỏ các viện công nghệ ở Hoa Kỳ có xu hướng tập trung chủ yếu vào các ngành kỹ thuật và khoa học ứng dụng.

Mặc dù có quy mô nhỏ, 72 cựu sinh viên và giảng viên Caltech đã được trao 73 giải Nobel (Linus Pauling là người đầu tiên trong lịch sử nhận 2 giải cá nhân), 4 huy chương Fields, 6 Giải Turing và 72 người đã nhận Huy chương Khoa học Quốc gia hay Huy chương Công nghệ và Sáng kiến Quốc gia của Hoa Kỳ, 112 giảng viên là viện sĩ của các Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ, 4 trưởng khoa học gia của Không quân Hoa Kỳ. Caltech cũng là một đối thủ cạnh tranh lâu năm của Viện Công nghệ Massachusetts. Năm 2012-2013, Caltech xếp thứ nhất thế giới trong bảng xếp hạng các viện đại học của Times Higher Education.

Lịch sử

Trường Đại học Throop

thumb|left|Viện Bách khoa Throop, 1908; khuôn viên ban đầu nằm ở khu trung tâm Pasadena.

Khởi đầu, Caltech là một trường dạy nghề do Amos G. Throop, một chính trị gia và một doanh nhân, thành lập ở Pasadena vào năm 1891. Ngôi trường sau đó được biết đến với các tên gọi Viện Đại học Throop (Throop University), Viện Bách khoa Throop (Throop Polytechnic Institute and Manual Training School), và Trường Đại học Công nghệ Throop (Throop College of Technology), trước khi được đổi thành tên gọi Viện Công nghệ California (Caltech) vào năm 1920. Ngôi trường dạy nghề ban đầu bị giải tán và chương trình dự bị đại học được tách ra để thành lập Trường Bách khoa (Polytechnic School) độc lập vào năm 1907.

Vào lúc mà nghiên cứu khoa học ở Hoa Kỳ chỉ mới bắt đầu nhen nhóm, George Ellery Hale, một nhà thiên văn học từ Viện Đại học Chicago, đã thành lập Đài Quan trắc Thiên văn Mount Wilson vào năm 1904. Ông tham gia hội đồng quản trị của Throop vào năm 1907, và bắt đầu ngay vào việc phát triển cơ sở này và toàn bộ vùng Pasadena thành một địa điểm văn hóa và khoa học quan trọng. Ông giúp đưa James A. B. Scherer, một học giả văn học không có chuyên môn trong lĩnh vực khoa học nhưng là một nhà quản trị có năng lực và một người gây quỹ hiệu quả, vào chức vụ viện trưởng của Throop vào năm 1908. Scherer thuyết phục Charles W. Gates, một thành viên hội đồng quản trị và một doanh nhân đã về hưu, hiến tặng 25.000 USD để xây dựng Phòng Thí nghiệm Gates, tòa nhà khoa học đầu tiên trong khuôn viên.

Hai cuộc chiến tranh thế giới

thumb|Sinh viên Viện Công nghệ California, Hoa Kỳ.

Năm 1910, Throop chuyển đến địa điểm hiện nay, khu đất do Arther Fleming hiến tặng. Theodore Roosevelt có bài phát biểu ở Viện Bách khoa Throop vào ngày 21 tháng 3 năm 1911, trong đó ông tuyên bố: "Tôi muốn thấy những cơ sở như Throop đào tạo 100 sinh viên thì có 99 sinh viên làm những công việc kỹ nghệ nhất định giỏi hơn bất kỳ ai khác; tôi muốn thấy những sinh viên này làm được như những gì đang được tiến hành ở công trình kênh đào Panama và ở những công trình thủy lợi kỳ vĩ trong nước - còn người sinh viên còn lại thì tôi muốn thấy kiểu đào tạo văn hóa khoa học sẽ khiến anh ta và những người như anh ta tạo nên một thế hệ mà đôi khi sản sinh ra một người như nhà thiên văn xuất chúng của quý vị, George Ellery Hale."

Cùng năm đó, một dự luật được trình ở Cơ quan Lập pháp California kêu gọi thành lập một "Viện Công nghệ California" được tài trợ bằng quỹ công, với ngân sách ban đầu một triệu đô-la, gấp 10 lần ngân sách của Throop vào lúc đó. Hội đồng quản trị đề nghị giao Throop cho tiểu bang, nhưng các viện trưởng của Viện Đại học Stanford và Viện Đại học California thông qua vận động hành lang đã đánh bật dự luật này, do đó Throop phát triển với tư cách là một viện giáo dục định hướng nghiên cứu khoa học duy nhất ở miền nam California, tính cả công lập và tư thục, cho đến lúc bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ hai khi cần thiết phải mở rộng hoạt động giáo dục dựa trên nghiên cứu. Triển vọng của Throop đã thu hút nhà hóa lý Arthur Amos Noyes từ MIT đến phát triển cơ sở này và hỗ trợ trong việc biến nó thành một trung tâm khoa học và công nghệ.

Với việc nổ ra Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hale thành lập Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia để điều phối và hỗ trợ nghiên cứu khoa học nhằm giải các bào toán trong quân sự. Mặc dù Hale ủng hộ ý tưởng chính quyền liên bang cấp tiền cho nghiên cứu khoa học, ông đã không đi theo lối sử dụng một dự luật liên bang vốn đã có thể giúp cấp tài trợ cho nghiên cứu kỹ thuật ở các trường đại học được cấp đất, thay vì vậy ông tìm cách quyên góp được một triệu đô-la cho quỹ nghiên cứu quốc gia từ những nguồn tư nhân.

Thông qua Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia, Hale vận động để khoa học đóng một vai trò lớn hơn trong các vấn đề quốc gia, và cùng lúc để Throop đóng một vai trò mang tầm quốc gia trong khoa học. Những khoản tài trợ mới được dành cho nghiên cứu vật lý, vốn dẫn đến việc thiết lập Phòng Thí nghiệm Norman Bridge, nơi đã thu hút nhà vật lý thực nghiệm Robert Andrews Millikan đến từ Viện Đại học Chicago vào năm 1917. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ nhất, Hale, Noyes và Millikan cùng làm việc với nhau ở Washington D.C. trong Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia. Sau đó họ tiếp tục cộng tác trong việc phát triển Caltech.

Dưới sự lãnh đạo của Hale, Noyes và Millikan (cùng với sự hỗ trợ của nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ của vùng Nam California), Caltech đã được danh tiếng ở phạm vi quốc gia vào thập niên 1920. Vào ngày 29 tháng 11 năm 1921, các thành viên hội đồng quản trị tuyên bố chính sách của Caltech là theo đuổi những nghiên cứu khoa học có tầm quan trọng đặc biệt và cùng lúc đó "tiếp tục có những khóa học được thiết kế và giảng dạy cẩn thận trong lĩnh vực kỹ thuật và khoa học thuần túy dựa trên các ngành khoa học cơ bản gồm toán, vật lý, và hóa học; mở rộng và làm phong phú chương trình học với nhiều thời lượng giảng dạy trong các môn như ngôn ngữ và văn chương tiếng Anh, lịch sử, và kinh tế học; và tiếp sức mạnh cho tất cả các hoạt động đó bằng tinh thần nghiên cứu mạnh mẽ." Albert Einstein đã đến Caltech lần đầu vào năm 1931 để hoàn thiện Lý thuyết tương đối tổng quát của mình; ông trở lại Caltech sau đó với tư cách giáo sư thỉnh giảng vào năm 1932 và 1933.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Caltech là một trong 131 trường đại học và viện đại học trên toàn quốc tham gia Chương trình Đào tạo cho Hải quân (V-12 Navy College Training Program) theo đó chuẩn bị cho sinh viên để họ trở thành sĩ quan Hải quân. Hải quân Hoa Kỳ cũng đã duy trì trong khuôn viên của Caltech một trường huấn luyện hải quân về kỹ thuật hàng không, nhân viên tại chỗ để giám sát vũ khí đạn dược và phương tiện hải quân, và một sĩ quan làm nhiệm vụ liên lạc với Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng.

Giai đoạn phát triển thời hậu chiến

thumb|Viện Beckman (Beckman Institute).

Trong các thập niên từ 1950 đến 1970, Caltech là nơi có Murray Gell-Mann và Richard Feynman, hai người có công trình đóng vai trò trung tâm trong việc xây dựng Mô hình chuẩn của vật lý hạt cơ bản. Bên ngoài cộng đồng những người làm vật lý, Feynman còn được biết đến như một nhà giáo xuất chúng và một nhân vật thú vị và khác thường.

Trong thời kỳ Lee A. DuBridge làm viện trưởng Caltech (1946–1969), số giảng viên Caltech tăng gấp đôi và diện tích khuôn viên tăng gấp ba. Không giống như những người tiền nhiệm của mình, DuBridge rất chào đón những khoản tài trợ của chính quyền liên bang dành cho nghiên cứu khoa học. Những lĩnh vực nghiên cứu mới nở rộ, bao gồm sinh hóa học, khoa học về các hành tinh, vật lý thiên văn hạt nhân, và địa hóa học. Một kính thiên văn đường kính 500 cm (200 inch) được xây dựng gần Núi Palomar vào năm 1948; đây là kính thiên văn mạnh nhất thế giới trong khoảng thời gian hơn 40 năm.

Caltech mở cửa đón các nữ sinh viên bậc đại học vào năm 1970, trong nhiệm kỳ viện trưởng của Harold Brown; số nữ sinh này chiếm 14% tổng số sinh viên năm nhất. Kể từ đó, tỷ lệ sinh viên nữ ở Caltech đã tăng dần lên.

Thế kỷ 21

Kể từ năm 2000, Dự án Trước tác của Einstein (Einstein Papers Project) được đưa về Caltech. Dự án này được thiết lập vào năm 1986 nhằm kết tập, bảo tồn, phiên dịch, và xuất bản những trước tác trong di sản Albert Einstein để lại sau khi mất và từ những bộ sưu tập khác.

Vào học kỳ mùa Thu năm 2008, trong khóa sinh viên năm nhất có 42% là nữ, đây là con số cao kỷ lục ở Caltech.

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Viện Công nghệ California** (tiếng Anh: _California Institute of Technology_, thường gọi là _Caltech_) là một viện đại học nghiên cứu tư thục ở Pasadena, California, Hoa Kỳ. Caltech có sáu đơn vị thành viên,
thumb|Sinh viên [[École Polytechnique, Paris, Pháp, trong đồng phục của trường.]] **Viện Công nghệ** (tiếng Anh: _institute of technology_) hay **trường bách khoa** (_polytechnic_) là một loại cơ sở giáo dục trao nhiều bằng cấp
**Học viện Công nghệ Georgia** (tiếng Anh: _Georgia Institute of Technology_) (thường được gọi là **Georgia Tech, Tech** hoặc là **GT**) là một viện đại học công lập tọa lạc tại thành phố Atlanta, tiểu
**Đại học Công nghệ Nanyang**, thường được gọi tắt là **NTU**, là một trong 6 trường đại học công lập tại Singapore. Đây là một trong số ít những trường đại học danh tiếng thế
**Khoa học và công nghệ luận** hay **khoa học, công nghệ và xã hội** (STS) là lĩnh vực nghiên cứu về tương tác qua lại giữa văn hóa, xã hội, chính trị với nghiên cứu
**Richard Phillips Feynman** (; 11 tháng 5 năm 1918 – 15 tháng 2 năm 1988) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ được biết đến với công trình về phương pháp tích phân
**Julius Robert Oppenheimer** (; 22 tháng 4 năm 1904 – 18 tháng 2 năm 1967) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ và là giám đốc phòng thí nghiệm Los Alamos của dự
thumb|Fritz Zwicky (1947) **Fritz Zwicky** (sinh vào ngày 14 tháng 2 năm 1898 - mất vào ngày 08 tháng 2 năm 1974) là một nhà thiên văn học Thụy Sĩ. Ông làm việc hầu hết
**Carl David Anderson** (3 tháng 9 năm 1905 - 11 tháng 1 năm 1991) là nhà vật lý người Mỹ. Ông nổi tiếng về việc khám phá ra positron vào năm 1932 và muon vào
**Howard Percy "Bob" Robertson** (27 tháng 1 năm 1903 – 26 tháng 8 năm 1961) là một nhà toán học và nhà vật lý học người Mỹ nổi tiếng với những đóng góp liên quan
**Edwin Mattison McMillan** (18.9.1907 – 7.9.1991) là nhà vật lý người Mỹ và là người đầu tiên đã tạo ra nguyên tố sau urani (_transuranium element_). Ông đã đoạt Giải Nobel Hóa học chung với
**John D. Roberts** (8 tháng 6 năm 1918 - 29 tháng 10 năm 2016) là nhà hóa học người Mỹ đã có những đóng góp vào việc hợp nhất hóa lý, phổ học và hóa
**Gerald Beresford Whitham** (13 tháng 12 năm 1927 – 26 tháng 1 năm 2014) là nhà toán học ứng dụng người Mỹ và là giáo sư (danh dự) môn Toán ứng dụng và Toán học
**Kip Stephen Thorne**, (sinh 1 tháng 6 năm 1940) là nhà vật lý lý thuyết người Mỹ, được biết đến với những đóng góp trong lĩnh vực vật lý hấp dẫn và vật lý thiên
Ảnh tốt nghiệp năm 1922 **Linus Carl Pauling** (28 tháng 2 năm 1901 – 19 tháng 8 năm 1994) là nhà hóa học, nhà hóa sinh, nhà hoạt động vì hòa bình, tác giả và
**Charles Elachi** (sinh ngày 18 tháng 4 năm 1947 tại Liban) ông là giáo sư người Mỹ gốc Liban chuyên về kỹ thuật điện và khoa học hành tinh tại Viện Công nghệ California. Từ
**Micah Altman** (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1967) là một nhà khoa học xã hội người Mỹ, người thực hiện nghiên cứu về tin học khoa học xã hội. Từ năm 2012, ông là
**Edward B. Lewis** (20 tháng 5 năm 1918 – 21 tháng 7 năm 2004) là một nhà di truyền học người Mỹ, đã đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1995. ## Cuộc
**Wolfgang Kurt Hermann "Pief" Panofsky** (24.4.1919 – 24.9.2007), là nhà vật lý người Mỹ gốc Do Thái. ## Tiểu sử ### Thời trẻ Panofsky sinh ngày 24.4.1919 tại Berlin, Đức, là con của sử gia
**William Alfred "Willy" Fowler** (9.8.1911 –14.3.1995) là nhà vật lý thiên văn người Mỹ đã đoạt Giải Nobel Vật lý năm 1983 (chung với Subrahmanyan Chandrasekhar). ## Cuộc đời và Sự nghiệp Sinh tại Pittsburgh,
**Ronald William Prest Drever** (26 tháng 10 năm 1931 – 7 tháng 3 năm 2017) là nhà vật lý thực nghiệm người Scotland. Ông là giáo sư danh dự tại Học viện Công nghệ California,
**John McCarthy** (4 tháng 9 năm 1927 - 24 tháng 10 năm 2011) là một nhà khoa học máy tính và nhà khoa học nhận thức người Mỹ. McCarthy là một trong những người sáng
nhỏ|DuBridge cùng với [[Nicolae Ceauşescu|Ceauşescu]] **Lee Alvin DuBridge** (21.9.1901 – 23.1.1994) là nhà vật lý và nhà giáo dục người Mỹ. ## Cuộc đời và sự nghiệp DuBridge sinh tại Terre Haute, Indiana, Hoa Kỳ.
**Trịnh Xuân Thuận** là nhà khoa học người Mỹ gốc Việt trong lĩnh vực vật lý thiên văn, ông đồng thời là một nhà văn đã viết nhiều cuốn sách có giá trị cao về
**Robert Cox Merton** (sinh 31 tháng 7 năm 1944) là một nhà kinh tế người Mỹ, người đoạt giải Nobel Kinh tế, và là giáo sư tại Trường quản lý Sloan MIT, được biết đến
**Robert Scott "Bob" Lazar** (; sinh ngày 26 tháng 1 năm 1959) tuyên bố đã từng làm trong dự án về công nghệ kỹ thuật đảo ngược ngoài hành tinh tại một địa điểm gọi
**Alfred George Knudson, Jr.** (9 tháng 8 năm 1922 – 10 tháng 7 năm 2016) là bác sĩ và nhà di truyền học người Mỹ chuyên về di truyền ung thư. Một trong số nhiều
**David Louis Goodstein** (5 tháng 4 năm 1939 10 tháng 4 năm 2024) là một nhà vật lý và giảng viên người Mỹ. Từ năm 1988 đến năm 2007 ông là phó quản lý của
**George Wells Beadle** (22.10 1903 – 9.6.1989) là nhà di truyền học người Mỹ, đã đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa chung với Edward Lawrie Tatum cho công trình phát hiện ra vai
**Arthur Amos Noyes** (1866 – 1936) là một nhà hóa học và nhà giáo dục người Mỹ. Ông đã làm quyền chủ tịch Học viện Công nghệ Massachusetts từ năm 1907 tới năm 1909. ##
**Hugo Benioff** (1899 – 1968) là nhà địa chấn học và giáo sư ở Học viện Công nghệ California. Ông được biết đến với công trình định vị các trận động đất dưới sâu trong
**Phillip Allen Sharp** (sinh ngày 6 tháng 6 năm 1944) là một nhà di truyền học, nhà sinh học phân tử người Mỹ, đã khám phá ra kỹ thuật di truyền. Ông đã đoạt giải
**Leo James Rainwater** (9.12.1917 – 31.5.1986) là nhà vật lý người Mỹ đã đoạt Giải Nobel Vật lý năm 1975 chung với Aage Niels Bohr và Ben Roy Mottelson cho công trình của ông trong
**Lư Gia Tích** (; 26 tháng 10 năm 1915 - 4 tháng 6 năm 2001), là một nhà hóa học và nhà giáo dục vật lý người Trung Quốc, người được coi là người sáng
**Rudolph "Rudy" Arthur Marcus** sinh ngày 21.7.1923 tại Montréal, Quebec, Canada là nhà hóa học người Mỹ gốc Canada đã đoạt giải Nobel Hóa học năm 1992 cho lý thuyết của ông về việc chuyển
**Narendra Krishna Karmarkar** (sinh năm 1957) là một nhà toán học Ấn Độ, người đã tạo ra thuật toán Karmarkar. Ông là một nhà nghiên cứu được Viện Thông tin Khoa học (ISI) thống kê
**Andrea Mia Ghez** (sinh ngày 16 tháng 6 năm 1965) là một nhà thiên văn học người Mỹ và là giáo sư tại Khoa Vật lý và Thiên văn học tại UCLA, nổi tiếng với
**Michael E. Brown** (sinh 5 tháng 6 năm 1965) là một nhà thiên văn học người Mỹ, từng là giáo sư ngành khoa học hành tinh tại Học viện Công nghệ California (Caltech) từ năm
nhỏ|phải|Charles Francis Richter **Charles Francis Richter** (26 tháng 4 năm 1900 – 20 tháng 4 năm 1985) là một nhà nghiên cứu địa chấn (động đất) sinh ra ở Hamilton, Ohio, Hoa Kỳ. Ông nổi
**Renato Dulbecco** (22 Tháng 2 1914 - 19 tháng 2 2012), là một nhà virus học người Ý đã đoạt giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1975 cho công trình nghiên cứu enzyme
**Rudolf Ludwig Mössbauer** () (31 tháng 1 năm 1929 – 14 tháng 9 năm 2011) là nhà vật lý học người Đức đã đoạt Giải Nobel Vật lý năm 1961 (chung với Robert Hofstadter) cho
**Barry Clark Barish** (sinh 27 tháng 1 năm 1936) là một nhà vật lý thực nghiệm người Mỹ. Ông mang chức danh giáo sư vật lý Linde, giáo sư danh dự tại Học viện Công
**Nonkululeko Merina Cheryl Nyembezi-Heita**, **Nku** (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1960) là một giám đốc kinh doanh Nam Phi, hoạt động trong lĩnh vực thép, viễn thông và tài chính Từ tháng 3 năm
**Arthur B. McDonald** (sinh ngày 29 tháng 8 năm 1943) là một nhà vật lý người Canada và là Giám đốc của Viện Neutrino Sudbury Observatory. Ông cũng giữ Gray Chair Gordon và Patricia Vật
**Robert Woodrow Wilson** (sinh ngày 10.01.1936) là nhà thiên văn học người Mỹ, đã đoạt Giải Nobel Vật lý năm 1978 chung với Arno Allan Penzias cho công trình phát hiện Bức xạ phông vi
**Tiền Học Sâm** (, 11 tháng 12 năm 1911 – 31 tháng 10 năm 2009) là một nhà khoa học có nhiều đóng góp quan trọng cho các chương trình không gian và đạn tự
**Hugh David Politzer** (sinh ngày 31 tháng 8 năm 1949) là một nhà vật lý lý thuyết Mỹ tại Viện Công nghệ California. Ông đã chia sẻ giải Nobel Vật lý năm 2004 về Vật
**Hội chứng sợ công nghệ hiện đại,** có tên khoa học là Technophobia (từ tiếng Hy Lạp τέχνη technē, "nghệ thuật, kỹ năng, thủ công" và φόβος phobos, "sợ hãi") là nỗi sợ hãi hoặc
thumb|Nuôi tôm công nghệ cao nhỏ|Nuôi cá cảnh Công nghệ cao thumb|Sản xuất nông nghiệp trong nhà kính **Nông nghiệp công nghệ cao** là một nền nông nghiệp được ứng dụng kết hợp những công
**Công nghệ nguội nhanh** (tiếng Anh: **_rapid cooling, melt-spinning_**) hay còn được gọi là phương pháp làm lạnh nhanh hoặc tôi nhanh (**_rapid quenching_**) là một công nghệ luyện kim dùng để chế tạo các