✨David Livingstone

David Livingstone

David Livingstone (19 tháng 3 năm 1813 – 1 tháng 5 năm 1873) là bác sĩ y khoa và nhà truyền giáo tiên phong người Scotland thuộc Hội Truyền giáo Luân Đôn, cũng là nhà thám hiểm châu Phi. David Livingstone được kể tên trong số những anh hùng dân tộc được yêu thích nhất ở Anh dưới triều Victoria vào cuối thế kỷ 19. Ông là một nhân vật huyền thoại, cấu thành bởi những nhân tố: nhà truyền giáo và người tử đạo, người nổi tiếng có xuất thân bần hàn, nhà thám hiểm và khảo sát khoa học, nhà cải cách, người vận động chống chế độ nô lệ. Ông cũng là người châu Âu đầu tiên nhìn thấy thác Victoria.

David Livingstone là nhân vật thứ 98 trong số 100 người Anh vĩ đại nhất thuộc mọi thời đại, theo một cuộc bầu chọn do BBC thực hiện trong năm 2002. Có lẽ Livingstone được nhớ đến nhiều nhất do câu hỏi của Henry Morton Stanley khi bất ngờ gặp Livingstone sau một cuộc tìm kiếm cam go, vì lúc ấy mọi người tin rằng Livingstone đã mất tích, "Bác sĩ Livingstone, tôi nghĩ thế?".

Danh tiếng của Livingstone như là một nhà thám hiểm nung nấu khát vọng khám phá thượng nguồn sông Nile mà cao điểm là thời kỳ người châu Âu đẩy mạnh các cuộc thám hiểm và khám phá nhiều vùng đất mới, cùng lúc với những nỗ lực thâm nhập vào châu Phi. Bên cạnh đó, những chuyến đi truyền giáo, những lần mất tích, và cái chết của ông tại châu Phi; sự kiện ông được tôn vinh năm 1874 (sau khi chết) đã khơi động tinh thần truyền giáo và giúp hình thành các đề án truyền giáo quan trọng tại châu Phi.

Thiếu thời

trái|[[Blantyre, nơi sinh trưởng của Livingstone.]] David Livingstone sinh ngày 19 tháng 3 năm 1813 tại làng Blantyre, Scotland, trong một nhà tập thể cho thuê, cư dân ở đây là công nhân làm việc tại một nhà máy dệt bên bờ sông Clyde dưới chiếc cầu dẫn vào Bothwell. Livingstone là con thứ hai trong số bảy người con của Neil Livingstone (1788-1856) và vợ Agnes (nhũ danh Hunter; 1782-1865). Khi lên mười, cậu bé David và anh, John, phải làm công việc nối chỉ tại máy dệt mười hai giờ mỗi ngày.

Cha của Livingstone là một tín hữu Cơ Đốc mộ đạo, và là giáo viên Trường Chúa Nhật. Làm nghề bán hàng lưu động, Neil thường mang theo mình các "truyền đạo đơn" để phân phát cho khách hàng. Ông đọc nhiều sách viết về các lĩnh vực như thần học, lữ hành, và công cuộc truyền giáo. Tất cả những điều này tác động đến con trai của ông, David say mê đọc sách, một sở thích khác của cậu là lang thang khắp nơi để khảo sát các loại động vật, cây cỏ, cũng như các loại hình địa chất nằm sâu trong các khu mỏ đá vôi quanh vùng. Trong khi Neil, do nỗi e sợ rằng các loại sách khoa học sẽ xói mòn niềm tin Cơ Đốc, cố ép cậu con trai chỉ đọc sách thần học, thì David, đặc biệt thích tìm hiểu về thiên nhiên và khoa học, lại muốn đào sâu về mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học. Năm 1832, khi đọc quyển Philosophy of a Future State của Thomas Dick, giáo viên khoa học, nhà thiên văn học nghiệp dư và mục sư, David tìm thấy những nguyên lý cần có giúp cậu nhận ra sự hòa hợp giữa đức tin và khoa học. Sau Kinh Thánh, đây là quyển sách có ảnh hưởng triết học lớn nhất đối với Livingstone.

Những người khác có ảnh hưởng đáng kể trên cậu trai trẻ David Livingstone là Thomas Burke, nhà truyền bá phúc âm, và David Hogg, giáo viên Trường Chúa Nhật của cậu.

Những kinh nghiệm Livingstone có được từ khi còn là một cậu bé mười tuổi đến làm công tại nhà máy dệt trong suốt sáu năm kế tiếp - lúc đầu cậu được giao công việc nối chỉ, về sau là đánh sợi – chính việc làm đơn điệu buồn tẻ này đã cho cậu tính nhẫn nại, kiên trì và một trái tim nhân hậu biết cảm thông với giới lao động..

Học vấn

Livingstone, cùng vài đứa trẻ khác cũng là con cái của các công nhân nhà máy dệt, đến học tại trường làng Blantyre. Đến trường không phải là dễ dàng gì đối với bọn trẻ bởi vì chúng phải làm việc mười bốn giờ mỗi ngày tại nhà máy, nhưng gia đình Livingstone luôn chú trọng đến học thức, muốn cậu tiến xa hơn.

Sau quyết định cống hiến đời mình cho công cuộc truyền giáo đến Trung Hoa trong cương vị một bác sĩ y khoa, năm 1843, Livingstone bắt đầu dành dụm tiền để đến năm 1836 vào Đại học Anderson (nay là Đại học Strathclye). Ngôi trường được thành lập với mục tiêu phổ cập kiến thức khoa học và kỹ thuật vào cuộc sống thường nhật, cùng lúc cậu tham dự những buổi học Hi văn và thần học tại Đại học Glasgow. Cậu cũng đến nghe các buổi diễn thuyết thần học của Wardlaw, nhà lãnh đạo chiến dịch chống tệ nạn buôn bán nô lệ. Sau đó, Livingstone xin gia nhập Hội Truyền giáo Luân Đôn, được gởi đến một khóa huấn luyện dành cho các giáo sĩ, trong khi vẫn tiếp tục học y khoa.

Năm 1844, khi đang thiết lập cơ sở truyền giáo mới tại Mabotswa cho sắc dân Kgatla, Livingstone bị sư tử tấn công, nếu không nhờ một giáo viên người Phi tên Mebalwe giải cứu, có lẽ ông đã bị mất mạng. Cả hai đều bị thương nặng. Một cánh tay của Livingstone bị liệt một phần, và ông phải chịu đau đớn do vết thương gây ra cho đến cuối đời.

Livingstone cũng là người phương Tây đầu tiên thực hiện cuộc hành trình băng ngang lục địa Phi châu, từ Luanda (nay là thủ đô của Angola) bên bờ Đại Tây Dương tới Quelimane cạnh Ấn Độ Dương gần cửa sông Zambezi trong những năm 1854-56. Khi ấy ông tin rằng giải pháp giúp hoàn thành các mục tiêu trên là tổ chức cuộc hành trình thám hiểm dòng sông Zambezi để đi sâu vào nội địa. Livingstone trở về Anh Quốc để tìm kiếm hậu thuẫn cho ý tưởng này, và xuất bản một cuốn sách viết về những chuyến đi của ông, tác phẩm này đã mang đến cho ông thanh danh của nhà thám hiểm hàng đầu trong thời đại ông.

Tin rằng mình nhận lãnh ơn gọi để thực hiện các chuyến thám hiểm chứ không phải để tham gia vào công cuộc truyền giáo, cùng lúc là những đáp ứng thuận lợi từ nước Anh đề nghị hỗ trợ cho các chuyến thám hiểm kế tiếp, là những nhân tố dẫn đến quyết định của Livingstone từ nhiệm khỏi Hội Truyền giáo Luân Đôn để tập trung vào mục tiêu khám phá châu Phi. Nhờ sự vận động của chủ tịch Hội Địa lý Hoàng gia, Livingstone được bổ nhiệm là Cố vấn của Nữ hoàng về Bờ biển phía Đông của châu Phi Thomas Baines, một họa sĩ trong đoàn thám hiểm, bị sa thải vì những nghi ngờ về trộm cắp dù Baines bác bỏ cáo buộc này.

Trước tiên, đoàn đến Hồ Malawi trên một chiếc xuồng bốn mái chèo, rồi tiến hành thám hiểm hồ. Đến năm 1862, đoàn quay lại bờ biển đợi chiếc tàu chạy bằng hơi nước được thiết kế đặc biệt để di chuyển trên hồ Malawi. Mary Livingstone đi trên thuyền này. Sau những thất bại của đoàn khi cố thăm dò Sông Ruvuma bởi vì bánh xe guồng của tàu hơi nước bị vướng vào những thi thể trôi sông – nạn nhân của bọn người buôn nô lệ; rồi thì các phụ tá của Livingstone hoặc qua đời hoặc rời bỏ đoàn. Ông tập hợp một nhóm gồm những nô lệ được tự do, thổ dân quần đảo Comoros, mười hai người Sepoys, và hai phụ tá trung thành, Chuma và Susi, cùng đi với ông từ chuyến thám hiểm trước. Một góc [[Hồ Tanganyika ở Kigoma]] Khởi hành từ cửa sông Ruvuma, nhưng những người trong đoàn dần dần từ bỏ Livingstone. Các thổ dân Comoros trở về từ Zanzibar báo cho giới thẩm quyền rằng Livingstone đã chết. Ngày 6 tháng 8, ông tới Hồ Malawi, hầu hết hành trang của ông, kể cả thuốc men, đều bị mất cắp. Livingstone băng qua khu đầm lầy tiến tới Hồ Tanganyika. Do sức khỏe suy giảm, ông nhắn tin về Zanzibar yêu cầu gởi vật dụng đến Uiji, rồi ông đi tiếp về hướng Tây. Do sức khỏe kém, ông bị buộc phải đi cùng những tay buôn nô lệ, ngày 8 tháng 10 năm 1867, Livingston đến Hồ Mweru, tiếp tục cuộc hành trình về phía Nam, ông trở thành người Âu đầu tiên nhìn thấy Hồ Bangweulu. Khi tìm thấy Sông Lualaba, ông nhầm tưởng đó là thượng lưu Sông Nile.

Năm 1869, bệnh trở nặng khi Livingstone đang ở trong rừng. Những tay buôn nô lệ người Ả Rập cứu ông bằng cách cho ông thuốc và mang ông đến một trạm tiền phương của người Ả Rập. Tháng Ba năm 1869, với bệnh lao trong người, Livingstone đến Ujiji để tìm lại vật dụng bị đánh cắp. Lại mắc thêm bệnh tả và ung loét nhiệt đới ở chân, ông bị buộc phải nhờ những tay buôn nô lệ đưa ông đến Bambara, rồi bị kẹt lại tại đây vì mùa mưa. khi đến thăm thị trấn Nyangwe bên bờ sông Lualaba, Livingstone chứng kiến vụ tàn sát 400 người Phi dưới tay bọn buôn nô lệ. Vụ này khiến ông kinh tởm đến nỗi gần như suy sụp không thể tiếp tục chuyến đi tìm kiếm thượng nguồn sông Nile.

Stanley tìm gặp Livingstone

Stanley gặp Livingstone Suốt sáu năm, Livingstone hoàn toàn mất liên lạc với thế giới bên ngoài, và mắc bệnh trong bốn năm cuối đời. Chỉ có một trong số 44 bức thư ông gởi đi từ Zanzibar đến tay người nhận - Horace Waller, một mục sư người Anh và là nhà hoạt động chống chế độ nô lệ, cũng là bạn thân của Livingstone - ông viết, "... Có lẽ tôi không thể sống để gặp lại anh..."

Năm 1869, nhà báo người Mỹ Henry Morton Stanley được nhật báo New York Herald cử sang châu Phi tìm kiếm Livingstone. Ngày 10 tháng 11 năm 1871, Stanley đến thị trấn Ujiji bên bờ hồ Tanganyika và gặp Livingstone, thốt lên câu nói nổi tiếng, "Bác sĩ Livingstone, tôi đoán thế?", mặc dù có những nghi vấn về tính chính xác của sự kiện bởi vì sau này Stanley đã xé bỏ những trang viết về cuộc gặp gỡ trong nhật ký hành trình của ông. Ngay cả những gì Livingstone ghi lại về cuộc gặp cũng không có câu nói này. Tuy nhiên, câu nói ấy được đăng tải trên tờ New York Herald ra ngày 10 tháng 8 năm 1872, cả từ điển Encyclopædia BritannicaOxford Dictionary of National Biography đều ghi lại câu nói ấy của Stanley.

Sau khi thám hiểm vùng Lualaba nhưng không thấy sự kết nối nào với sông Nile, Livingstone quay trở lại Hồ Bangweulu và những bãi đầm lầy của nó để tìm kiếm những dòng sông chảy về hướng Bắc.

Livingstone và Sechele

Mặc dù được xem là "nhà truyền giáo vĩ đại nhất châu Phi", Livingstone chỉ thuyết phục được một người bản địa duy nhất đến với đức tin Cơ Đốc: Sechele, tù trưởng bộ tộc Kwena ở Botswana. Sinh năm 1812, cha mất lúc mười tuổi, bộ tộc bị hai ông chú chia đôi, Sechele phải bỏ đi. Chín năm sau, Sechele quay về, lấy lại một nửa bộ tộc. Đó là thời điểm Sechele gặp Livingstone.

Livingstone nổi tiếng khắp vùng về thái độ luôn tôn trọng người bản địa. Mặc dù được người dân các bộ tộc tiếp đón với sự tin cậy và lòng trung thành, Livingstone không hề cố ép họ chấp nhận Cơ Đốc giáo. Sau một thời gian do dự, Livingstone làm lễ báp têm cho Sechele. Là người hiếu học, Sechele đọc được các mẫu tự chỉ trong hai ngày, rồi học và sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ thứ hai. Dù vậy, Sechele không thể từ bỏ tập tục đa thê của châu Phi, điều này gây thất vọng cho các giáo sĩ, cũng là một trong những nguyên nhân khiến Livingstone tin rằng ông nhận lãnh ơn gọi để thám hiểm châu Phi hơn là tập trung vào nỗ lực truyền giáo. thumb|Chuma, phụ tá thân tín của Livingstone Tuy nhiên, sau khi Livingstone rời khỏi bộ tộc Kwena, Sechele vẫn tiếp tục duy trì đức tin, hướng dẫn các giáo sĩ tiếp xúc với các bộ tộc lân cận để truyền bá phúc âm, ông thành công đến nỗi hầu như đã khiến toàn thể người Kwena trở thành tín hữu Cơ Đốc. Theo nhận xét của Neil Parson từ Đại học Botswana, Sechele "đã làm việc nhiều hơn bất kỳ nhà truyền giáo người Âu châu nào trong nỗ lực truyền bá Cơ Đốc giáo ở nam châu Phi thế kỷ 19."

Từ trần

Ngày 1 tháng 5 năm 1873, David Livingstone qua đời trong ngôi làng của Tù trưởng Chitambo ở Ilala đông nam Hồ Bangweulu (nay thuộc Zambia) được cho là do bệnh sốt rét và xuất huyết nội bởi bệnh lỵ. Ông trút hơi thở cuối cùng khi đang quỳ gối cầu nguyện bên cạnh giường. Ngay trong buổi sáng ông mất, hai phụ tá thân tín của ông – Susi và Chuma, quyết định mổ lấy tim, rồi mang thi thể của ông đến bờ biển để được chuyển về Anh bằng tàu thủy.

Quả tim của Livingstone được chôn dưới gốc cây Mvula ngay nơi ông mất, nay là Đài Tưởng niệm Livingstone. Thi thể cùng với quyển nhật ký của Livingstone được Chuma và Susi mang vượt quãng đường dài đến cảng biển Bagamoyo, rồi được chở về nước Anh để an táng tại Điện Westminster, Luân Đôn.

Livingstone và chế độ nô lệ

thumb|Những tay buôn nô lệ người Ả Rập và các nô lệ bị chúng bắt giữ. Trong thư gởi chủ biên nhật báo New York Herald, Livingstone viết, "Nếu những gì tôi vạch trần về chế độ nô lệ ở Ujiji sẽ giúp trấn áp nạn buôn bán nô lệ tại bờ biển phía Đông, thì đối với tôi, điều đó còn quan trọng hơn việc khám phá thượng nguồn sông Nile."

Livingstone cũng thuật lại những gì ông chứng kiến ở vùng đại hồ châu Phi mà ông đã đến vào giữa thế kỷ mười chín, "Chúng tôi đi ngang qua một phụ nữ bị bắn hoặc bị đâm xuyên qua thân thể đang nằm trên con lộ. [Những người đứng nhìn] nói rằng một người Ả Rập mới đến sáng nay đã làm điều đó trong cơn giận dữ bởi vì không thể bán người phụ nữ ấy theo giá ông ta muốn, và bởi vì bà ấy không thể lê bước đi tiếp".

Thư tín, sách, và nhật ký của Livingstone Tuy nhiên, trong một số trường hợp, ông bị buộc phải dựa vào sự trợ giúp của những tay buôn nô lệ mà ông không muốn dính líu đến. Bởi vì thiếu kỹ năng lãnh đạo, Livingstone phải một mình tổ chức chuyến thám hiểm sau cùng với sự trợ giúp của những người giúp việc và phu khuân vác mà không có chuyên gia nào bên cạnh ông. Đã vậy, ông lại không thể đối xử tàn bạo theo cung cách của những tay thám hiểm còn non tay như Stanley thường áp dụng để kiểm soát đoàn tùy tùng và để bảo đảm hàng hóa vật dụng. thumb|Chân dung Livingstone, tranh Frederick Havill Livingstone cũng gặp khó khăn với Hội Truyền giáo Luân Đôn bởi vì họ tin rằng những chuyến thám hiểm đã khiến Livingstone bỏ bê công việc truyền giáo. Tuy nhiên, suốt cuộc đời mình, Livingstone luôn hành xử trong tư cách của một nhà truyền giáo, không phải với "kiểu cách ngớ ngẩn của những giáo sĩ kè kè quyển Kinh Thánh trên tay" nhưng với niềm xác tín rằng ông "đang phụng sự Chúa Cơ Đốc khi bắn hạ một con trâu rừng để cứu mạng những người [trong đoàn thám hiểm], hoặc khi thực hiện những cuộc khảo sát địa dư, mặc dù một số người cho rằng như thế là chưa đủ hoặc là chẳng có gì dính líu đến công việc truyền giáo cả."

Gia đình

Tận tụy cống hiến cho những lý tưởng cao cả và đạt được những thành tựu lớn, Livingstone lại có một hối tiếc lúc cuối đời là đã không dành đủ thời gian để gần gũi các con. Livingstone và Mary có sáu người con, họ lớn lên thiếu vắng người cha trong khi người mẹ sức khỏe kém rồi mắc bệnh sốt rét qua đời năm 1862.

Các con của Livingstone gồm có: Robert, chết trong cuộc Nội chiến Mỹ; Agnes (sinh năm 1847), Thomas, Elizabeth (chết chỉ hai tháng sau khi ra đời), William Oswell (còn gọi là Zouga, tên của dòng sông nơi ông chào đời năm 1851), và Anna Mary (sinh năm 1858). Trong số họ có Agnes, William Oswell, và Anna Mary lập gia đình và có con.

Livingstone trong văn hóa nghệ thuật

phải

  • Một xuất phẩm điện ảnh mang tên Stanley và Livingstone đã được trình chiếu, với Cedric Hardwicke trong vai Livingstone và Spencer Tracy trong vai Stanley, thuật lại những hoạt động của Livingstone tại châu Phi.
  • "Dr. Livingstone, I Presume", một ca khúc trong album In Search of the Lost Chord của Moody Blues, phát hành năm 1968.
  • Mountains of the Moon, một cuốn phim trình chiếu năm 1990, trong đó Bernard Hill thủ vai Livingstone.

Tàng thư

Tàng thư David Livingstone được lưu giữ ở Văn khố Đại học Glasgow. Ngày 11 tháng 11 năm 2011, lần đầu tiên quyển nhật ký thực địa năm 1871 của Livingstone, cùng những văn kiện khác của ông, được Đề án David Livingstone Spectral Imaging phát hành trên internet.

Các văn kiện liên quan đến thời kỳ Livingstone khi ông hoạt động trong cương vị nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Luân Đôn (trong đó có bản đồ Đông Nam châu Phi có ghi chú viết tay của Livingstone) được Văn khố Trường Nghiên cứu Đông phương và châu Phi lưu giữ.

Tưởng niệm

Phi châu

  • Đài Tưởng niệm Livingstone ở Ilala, Zambia ghi dấu địa điểm Livingstone từ trần.
  • Thành phố Livingstone gồm có một tượng đài đặt trước Viện Bảo tàng Livingstone và một pho tượng hoàn thành năm 2005.
  • Viện Rhodes-Livingstone, một học viện nghiên cứu về nhân học đô thị, được thành lập trong hai thập niên 1940 và 1970 tại hai thành phố Livingstone và Lusaka, Zambia
  • Đại học Sư phạm David Livingstone, Thành phố Livingstone, Zambia.
  • Tượng David Livingstone ở Thác Victoria, Zimbabwe, khánh thành năm 1954 đặt tại bờ phía tây của con thác.
  • Tượng David Livingstone khánh thành vào tháng 11 năm 2005 tại Thác Victoria phía Zambia.
  • Núi Kipengere đông nam Tanzania gần Hồ Malawi còn gọi là Núi Livingstone.
  • Thác Livingstone trên dòng sông Congo, do Stanley đặt tên.
  • Cơ sở Truyền giáo Nội địa Livingstone thuộc giáo hội Baptist, nay thuộc Kinshasa, Zaire.
  • Đài Tưởng niệm Livingstone–Stanley ở Mugere (nay là Burundi) đánh dấu địa điểm Livingstone và Stanley đến thăm trong chuyến thám hiểm Hồ Tanganyika, từng bị lẫn lộn là nơi họ gặp nhau lần đầu.
  • Bệnh viện Scotland Livingstone ở Molepolole 50 km phía tây Gaborone, Botswana.
  • Địa điểm tưởng niệm Livingstone ngay tại phế tích của Cơ sở Truyền giáo Kolobeng 40 km phía tây Gaborone, Botswana.
  • Nhà Livingstone tại Stone Town, Zanzibar. Sultan Zanzibar, Sayyid Majid bin Said Al-Busaid, cung cấp nơi ở này cho Livingstone từ tháng 1 đến tháng 3 năm 1866 để chuẩn bị cho chuyến thám hiểm cuối cùng.
  • Trường Tiểu học David Livingstone tại Salisbury, Zimbabwe.
  • Trường Trung học cơ sở David Livingstone tại Ntabazinduna khoảng 40 km cách Bulawayo, Zimbabwe.
  • Trường Trung học Phổ thông David Livingstone Senior tại Schauderville, Port Elizabeth, Nam Phi.
  • Nhà Livingstone tại Harare, Zimbabwe, do Leonora Granger thiết kế.
  • Nhà Livingstone thuộc Trường Nội trú Achimota, Ghana.
  • [http://tz.geoview.info/livingstone_street,25108633w Đường Livingstone], Dar es Salaam, Tanzania.

New Zealand

Đường Livingstone ở Westmere, Auckland Đường Livingstone, Flaxmere, Hastings

Scotland

thumb|Tượng Livingstone ở [[Glasgow, Scotland]]

  • Tượng Livingstone đặt trong Công viên Princes Street Gardens, Edinburgh, Scotland.
  • Trung tâm David Livingstone ở Blantyre, Scotland, là một viện bảo tàng tôn vinh ông.
  • Trường Tiểu học David Livingstone được thành lập tại thị trấn ông chào đời, Blantyre, Lanarkshire, Scotland.
  • Nhà thờ Tưởng niệm David Livingstone thuộc Giáo hội Scotland ở Blantyre, Lanarkshire, Scotland.
  • Tượng Livingstone đặt tại Quảng trường Cathedral, Glasgow.
  • Tượng bán thân David Livingstone ở trong số những bức tượng của các nhân vật nổi tiếng người Scotland trong Khu Tưởng niệm William Wallace gần Stirling, Scotland.
  • Đại học Strathclyde (tiền thân là Đại học Anderson) ở Glasgow thành lập Trung tâm Phát triển Bền vững Livingstone và Tòa tháp Livingstone, có một bức tượng của ông được đặt tại đây.
  • Đại học Glasgow thành lập Giải Sinh lý học David Livingstone nhằm tôn vinh ông.
  • Livingstone Place là tên một con phố trong khu dân cư Marchmont ở Edinburgh.
  • Đường Livingstone ở Addiewell.
  • Một tấm biển kỷ niệm một trăm năm ngày sinh của Livingstone được đặt tại Nhà thờ St James, nơi Livingstone đến sinh hoạt khi còn niên thiếu.

Luân Đôn

  • Tượng David Livingstone được đặt cao trên bức tường của Hội Địa lý Hoàng gia ở Kensington Gore, Luân Đôn, khánh thành trong năm 1953

Canada

  • Một rặng núi ở phía nam Alberta được đặt theo tên Livingstone.
  • Trường Tiểu học David Livingstone ở Vancouver.
  • Trường Cộng đồng David Livingstone ở Winnipeg.
  • Tượng Livingstone bán thân ở Halifax, Nova Scotia.
  • Tượng Livingstone bán thân tại thành phố Borden, Ontario.
  • Đại lộ Livingstone ở Barrie, Ontario.

Hoa Kỳ

  • Đại học Livingstone, Salisbury, North Carolina.
  • Học viên Livingstone tại Salem, Oregon.

Nam Mỹ

*Cơ sở Truyền giáo Chăm sóc Sức khỏe Livingstone ở Jardìn Amèrica, Misiones, Argentina.

Tiền giấy

Từ năm 1971 - 1998, hình Livingstone được in trên tiền giấy mệnh giá 10 bảng Anh do Ngân hàng Clydesdale phát hành. Ấn bản đầu có hình lá cọ bao quanh chân dung ông, mặt còn lại là ảnh minh họa người dân bộ tộc châu Phi. Ấn bản sau là chân dung Livingstone trên hình nền là bản đồ cuộc thám hiểm sông Zambezi, hình ảnh sông Zambezi, Thác Victoria, Hồ Nyasa, và thành phố Blantyre, Malawi. Mặt còn lại in hình thành phố sinh quán của Livingstone, Blantyre, Scotland.

Sinh học

Những mẩu sinh vật sau được đặt theo tên Livingtone để vinh danh ông:

  • Loài cá Cichlid ở Hồ Malawi Nimbochromis livingstonii
  • Linh dương châu Phi Taurotragus oryx livingstonii
  • Dơi Livingstone, Pteropus livingstonii
👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**David Livingstone** (19 tháng 3 năm 1813 – 1 tháng 5 năm 1873) là bác sĩ y khoa và nhà truyền giáo tiên phong người Scotland thuộc Hội Truyền giáo Luân Đôn, cũng là nhà
Who Were Stanley And Livingstone Join the American journalist Henry Morton Stanley on his amazing quest to find David Livingstone, Englands most celebrated explorer, in this new addition to the 1 New York Times bestselling
**Thác nước Victoria** hay **Mosi-oa-Tunya** (Tokaleya Tonga: _khói bốc lên từ sấm sét_) là một thác nước tại miền nam châu Phi trên sông Zambezi, tại biên giới Zambia và Zimbabwe. CNN đã mô tả
**Hồ Malawi** (cũng gọi là **Hồ Nyasa** hoặc **Hồ Nyassa**, **Hồ Niassa**, hay **Lago Niassa** ở Mozambique), là một trong các hồ Lớn châu Phi. Hồ này nằm ở vùng cực nam của hệ Thung
**Alexandre Émile John Yersin** (22 tháng 9 năm 1863 – 1 tháng 3 năm 1943) là một bác sĩ, nhà vi khuẩn học và nhà thám hiểm người Pháp gốc Thuỵ Sĩ. Ông nổi tiếng
**Charles Haddon Spurgeon**, thường được biết đến với tên **C. H. Spurgeon** (19 tháng 6 năm 1834 – 31 tháng 1 năm 1892) là nhà thuyết giáo người Anh thuộc giáo phái Baptist, ảnh hưởng
**Mamochisane** (trị vì trong khoảng thập niên 1850) là một nữ hoàng Makololo cai trị nhiều người, nhưng đặc biệt là Lozi ở Barotseland, ngày nay là Tây Zambia và là vợ của vua Sipopa
**Sir Henry Morton Stanley** GCB (tên khai sinh **John Rowlands**; 28 tháng 1 năm 1841 – 10 tháng 5 năm 1904) là một nhà báo và thám hiểm người xứ Wales nổi tiếng với chuyến
**Malawi** ( hay [maláwi]), tên chính thức **Cộng hòa Malawi**, là một quốc gia có chủ quyền không giáp biển tại Đông Nam Phi, từng được gọi là Nyasaland. Malawi giáp với Zambia về phía
**Vườn quốc gia hồ Malawi** là một vườn quốc gia nằm ở cuối phía nam của hồ Malawi, thuộc lãnh thổ Malawi. Đây là vườn quốc gia duy nhất ở Malawi được thành lập để
Danh sách những người giành **Giải BAFTA cho Đạo diễn, Biên kịch, Nhà sản xuất đầu tay người Anh nổi bật**. ## Giải Carl Foreman cho thành tựu đặc biệt của biên kịch, đạo diẽn
**Tu viện Westminster** (tiếng Anh: _Westminster Abbey_), có tên chính thức **Nhà thờ kinh sĩ đoàn Thánh Peter tại Westminster** (_Collegiate Church of St Peter at Westminster_), là một nhà thờ theo kiến trúc Gothic
Ngày **17 tháng 11** là ngày thứ 321 (322 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 44 ngày trong năm. ## Sự kiện *794 – Thiên hoàng Kanmu dời đô từ Nagaoka đến Heian, mở
Ngày **1 tháng 5** là ngày thứ 121 (122 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 244 ngày trong năm. ## Sự kiện *305 – Hai đồng hoàng đế Diocletianus và Maximianus trở thành những
Ngày **10 tháng 11** là ngày thứ 314 (315 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 51 ngày trong năm. ## Sự kiện *621 – Tùy mạt Đường sơ: Lương Đế Tiêu Tiển hạ lệnh
**Cộng hòa Zambia** (tiếng Việt: **Cộng hòa Dăm-bi-a**; tiếng Anh: _Republic of Zambia_) là một quốc gia Cộng Hòa nằm ở miền Nam châu Phi. Các nước láng giềng của Zambia bao gồm Cộng hòa
**Blantyre** là thành phố ở phía nam Malawi, là trung tâm hành chính của vùng phía nam và quận Blantyre. Thành phố này nằm bên sông Shire. Đây là thành phố lớn nhất của Malawi
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Colonial_Africa_1913_map.svg|nhỏ|300x300px|Bản đồ các thuộc địa châu Phi của các đế quốc châu Âu vào năm 1913 (Bỉ (vàng), Anh (hồng da cam), Pháp (xanh lam), Đức (ngọc lam), Ý (xanh lục), Bồ Đào Nha (tím)
**Bujumbura**, tên trước đây là **Usumbura**, là thành phố lớn nhất và cựu thủ đô của Burundi và tỉnh lỵ của tỉnh Bujumbura Mairie, nằm góc đông bắc của hồ Tanganyika. Bujumbura là một trung
nhỏ|Francis Garnier trên con tem năm 1943 của Liên bang Đông Dương **Marie Joseph François (Francis) Garnier** (phiên âm: Phrăng-xít Gác-ni-ê) (25 tháng 7 năm 1839 – 21 tháng 12 năm 1873) là một sĩ
nhỏ|300x300px| _Tháp Babel_ của [[Pieter Bruegel il Vecchio|Pieter Bruegel the Elder (1563) ]] **Tháp Babel** (, _Migdal Bavel, Burj Babil)_ là một huyền thoại Sách Sáng Thế 11:1–9, nhằm giải thích về sự bất đồng
thumb|upright|[[William Wilberforce, người lãnh đạo chiến dịch của Anh để xóa bỏ buôn bán nô lệ]] thumb|upright|"Tôi có phải là một con người và một người anh em không? "Huy chương được tạo ra như
**_Ensete livingstonianum_** là một loài thực vật có hoa trong họ Musaceae. ## Lịch sử phân loại Loài này được John Kirk (1832-1922) mô tả khoa học đầu tiên ngày 19 tháng 1 năm 1865
**Trung Phi thuộc Anh**, hay đầy đủ là **Xứ bảo hộ Trung Phi thuộc Anh** (; **BCA)**là một vùng bảo hộ của Anh được tuyên bố vào năm 1889 và được phê chuẩn vào năm
thumb|Hành trình của cuộc thám hiểm Cuộc **thám hiểm sông Mekong 1866-1868**, được chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ phát động và giao cho Ernest Doudart de Lagrée lãnh đạo, thực hiện thám
**Zip Zip** (tên tiếng Việt: **Đội lốt thú cưng**) là chương trình hoạt hình Pháp được tạo bởi Aurore Damant, dựa vào ý tưởng của Anne Ozannat và được sản xuất bởi GO-N Productions và
Đây là **danh sách cầu thủ bóng đá nước ngoài tại Việt Nam**. Danh sách bao gồm những cầu thủ từ năm 2000 đến năm 2024. Các cầu thủ của mùa giải hiện tại cũng
**_The Amazing Race 1_** là chương trình đầu tiên của loạt chương trình truyền hình thực tế, _The Amazing Race_. Chương trình lên sóng truyền hình Mỹ lần đầu vào ngày 5/9/2001. ## Sản xuất
**Alexander Boris de Pfeffel Johnson** (sinh 19 tháng 6 năm 1964) là cựu Thủ tướng Vương quốc Anh và cũng từng là Lãnh đạo của Đảng Bảo thủ từ 2019 đến 2022. Ông là Nghị
Đây là **danh sách cầu thủ nước ngoài ghi bàn tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam** (V.League 1). Một cầu thủ nằm trong danh sách dưới đây phải thoải mãn cả
**Sân vận động Wembley** (), được đặt tên là **Sân vận động Wembley được kết nối bởi EE** vì lý do tài trợ, là một sân vận động bóng đá ở Wembley, Luân Đôn, được
[[Phương trình nổi tiếng của Einstein dựng tại Berlin năm 2006.]] **Thuyết tương đối** miêu tả cấu trúc của không gian và thời gian trong một thực thể thống nhất là không thời gian cũng
**William Jefferson Clinton** (tên khai sinh: **William Jefferson Blythe III**, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1946), thường được biết tới với tên **Bill Clinton** là Tổng thống thứ 42 của Hoa Kỳ từ năm
**Glenda May Jackson** (9 tháng 5 năm 1936 – 15 tháng 6 năm 2023) là một nữ diễn viên, chính trị gia người Anh, hiện là dân biểu trong Hạ nghị viện Vương quốc Anh.
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ** chính thức đại diện cho Bỉ tại các giải đấu bóng đá nam quốc tế kể từ trận đấu đầu tiên vào năm 1904. Đội tuyển thuộc thẩm
**Illtyd Harrington** (14 tháng 7 năm 1931 – 1 tháng 10 năm 2015) là một chính khách của Đảng Lao động Anh, từng là phó lãnh đạo của Hội đồng Greater London (1981–84) và sau