✨Malawi

Malawi

Malawi ( hay [maláwi]), tên chính thức Cộng hòa Malawi, là một quốc gia có chủ quyền không giáp biển tại Đông Nam Phi, từng được gọi là Nyasaland. Malawi giáp với Zambia về phía tây bắc, Tanzania về phía đông bắc, và Mozambique về phía đông, đông nam và tây nam. Hồ Malawi nằm giữa nước này và Tanzania, Mozambique. Malawi có diện tích với dân số ước tính 16.777.547 (2013). Thủ đô là Lilongwe, cũng là thành phố lớn nhất Malawi; các thành phố theo sau là Blantyre, Mzuzu và cố đô Zomba. Cái tên Malawi xuất phát Maravi, cái tên cũ của người Nyanja sinh sống tại đây. Nước này còn có biệt danh "Trái tim ấm của châu Phi".

Malawi là một trong các quốc gia nhỏ nhất châu Phi. Hồ Malawi chiếm một phần đáng kể diện tích Malawi.

Khu vực mà nay là Malawi đã là nơi cư trú của các nhóm người Bantu từ khoảng thế kỷ X. Nhiều thế kỉ sau, năm 1891, khu vực này trở thành thuộc địa của Anh. Năm 1953, Malawi, khi đó còn là Nyasaland, một xứ bảo hộ của Anh, trở thành một phần của Liên bang Rhodesia và Nyasaland bán độc lập. Liên bang tan rã năm 1963. Năm 1964, sự bảo hộ của thực dân Anh lên Nyasaland kết thúc và Nyasaland trở thành một quốc gia độc lập với cái tên mới Malawi. Hai năm sau nó trở thành một nước cộng hòa. Hậu độc lập, nó trở thành một nhà nước đơn đảng dưới quyền của tổng thống Hastings Banda, người tiếp tục nắm quyền tới năm 1994, khi ông thất bại trong cuộc bầu cử. Arthur Peter Mutharika là đương kim tổng thống. Malawi có một chính phủ dân chủ, đa đảng. Lực lượng Phòng vệ Malawi gồm một bộ binh, thủy binh và không quân. Chính sách đối ngoại của Malawi là thân Tây phương, quan hệ ngoại giao tích cực với hầu hết cả các nước, và tham gia nhiều tổ chức quốc tế, gồm Liên Hợp Quốc, Thịnh vượng chung các quốc gia, Cộng đồng phát triển Nam Phi (SADC), Thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA) và Liên minh châu Phi (AU).

Malawi là một trong những quốc gia kém phát triển nhất thế giới. Nền kinh tế chủ yếu dựa trên nông nghiệp, với dân cư phần lớn sống ở nông thôn. Chính phủ Malawi phụ thuộc nhiều vào trợ cấp từ bên ngoài để đạt chỉ tiêu phát triển, dù sự phụ thuộc này đã dần giảm đi kể từ năm 2000. Chính phủ Malawi đối mặt nhiều khó khăn trong xây dựng cơ sở hạ tầng và mở rộng nền kinh tế, cải thiện giáo dục, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ thiên nhiên, và trở nên độc lập về tài chính. Từ năm 2005, Malawi đã phát triển nhiều dự án để giải quyết các vấn đề trên và nhìn chung thì đang phát triển, với sự nâng cao về kinh tế, giáo dục và chăm sóc sức khỏe thấy được trong năm 2007 và 2008.

Malawi có tuổi thọ trung bình thấp và tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh cao. Cộng với một số lớn dân số mắc HIV/AIDS, đã làm cạn kiệt nguồn lao động. Có sự đa dạng lớn về thành phần dân tộc bản địa, với nhiều ngôn ngữ và niềm tin tôn giáo hiện diện.

Lịch sử

Khu vực mà ngày nay Malawi từng có một số dân nhỏ dân cư sống săn bắt-hái lượm trước khi những làn sóng di cư của người Bantu từ phía bắc tràn đến vào khoảng thế kỷ thứ X. Dù đa số người Bantu tiếp tục hướng về phía nam, một số định cư tại đây và tạo nên những nhóm dân tộc dựa trên tổ tiên chung. Tới năm 1500, những bộ tộc thành lập nên Vương quốc Maravi đã thiết lập nên một lãnh thổ trải dài từ Nkhotakota ở phía bắc đến sông Zambezi ở phía nam và từ hồ Malawi ở phía đông tới sông Luangwa (tại Zambia ngày nay) ở phía tây. Mạn lưới buôn bán nô lệ Swahili-Ả Rập tại đây đạt đỉnh cao vào giữa thế kỷ XIX, khi chừng 20.000 người bị nô lệ hóa và bị mang đi mỗi năm từ Nkhotakota tới Kilwa, nơi họ bị đem bán.

Nhà truyền giáo và thám hiểm David Livingstone tìm đến hồ Malawi (khi đó là hồ Nyasa) năm 1859 và xác định rằng cao nguyên Shire phía nam hồ là khu vực thích hợp cho sự định cư của người châu Âu. Do kết quả của sự thám hiểm của Livingstone, nhiều nơi truyền giáo phái Anh giáo và Giáo hội Trưởng Nhiệm đã được thiết lập trong hai thập niên 1860 và 1870, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hồ châu Phi thành lập năm 1878 để tạo nên mạng lưới giao thương và vận tải, có quan hệ mật thiết đến những điểm truyền giáo kia. Một điểm dân cư và truyền giáo nhỏ được thành lập năm 1876 tại Blantyre và một lãnh sự quán Anh được xây dựng ở đây năm 1883. Do chính phủ Bồ Đào Nha cũng quan tâm đến vùng nay nên, để chống lại sự chiếm cứ của Bồ Đào Nha, chính phủ Anh đã gửi Harry Johnston làm lãnh sự viên để ký kết những hiệp ước với các nhà lãnh đạo địa phương nằm ngoài tầm kiểm soát của Bồ Đào Nha.

thumb|left|Tem [[Xứ bảo hộ Trung Phi thuộc Anh|Trung Phi thuộc Anh phát hành bởi Vương quốc Liên hiệp năm 1897.]]

Năm 1889, một xứ bảo hộ Anh ra đời trên Cao nguyên Shire, được mở rộng năm 1891 ra toàn bộ lãnh thổ Malawi ngày nay, có tên Xứ bảo hộ Trung Phi thuộc Anh. Năm 1907, nó được đặt lại tên là Nyasaland và cái tên này được sử dụng cho đến hết thời gian thống trị của Anh. Một ví dụ điển hình của cái gọi là "Thin White Line" (Đường trắng mỏng) của chính phủ thuộc địa là châu Phi, là khi chính phủ Nyasaland được thành lập năm 1891. Những người quản lý được trả 10.000 bảng (giá trị 1891) mỗi năm, đủ để thuê mười dân thường châu Âu, hai nhân viên quân đội, bảy mươi người Sikh Punjab và tám mươi lăm người khuân vát Zanzibar. Tất cả được giao nhiệm vụ điều hành và quản lý một lãnh thổ rộng 94,000 kilômét vuông với dân số từ một đến hai triệu người.

Năm 1944, Quốc hội châu Phi Nyasaland (NAC) được thành lập bởi người châu Phi tại Nyasaland. Năm 1953, Anh hợp nhất Nyasaland với Bắc và Nam Rhodesia để tạo nên Liên bang Rhodesia và Nyasaland, thường gọi là Liên bang Trung Phi (CAF), Liên bang này bán độc lập, và trong đó NAC được ủng hộ rộng rãi. Một người đối lập của CAF là Hastings Banda, một bác sĩ từng học tập tại châu Âu và làm việc tại Ghana, người đã được thuyết phục để trở lại Nyasaland năm 1958. Banda được bầu làm lãnh đạo NAC và làm việc để động viên tinh thần dân tộc trước khi bị bỏ tù bởi chính quyền thực dân năm 1959. Ông được phóng thích một năm sau đó, và được mời góp phần soạn thảo hiến pháp mới của Nyasaland, giúp đưa người châu Phi lên chiếm phần đông Hội đồng Lập pháp. Những đảng đối lập, gồm Phong trào Tự do Malawi của Orton Chirwa và Liên minh Xã hội Chủ nghĩa Malawi, phải lưu vong bên nước ngoài.

Dưới áp cực của các yêu cầu tự do chính trị, Banda đồng ý tổ chức một cuộc trưng cầu ý dân năm 1993, khi phần lớn người dân yêu cầu một chế độ dân chủ đa đảng. Cuối năm 1993, một hội đồng tổng thống được lập ra, và một hiến pháp mới được áp dụng, kết thúc sự thống trị của MCP.

Chính trị

thumb|[[Peter Mutharika, Tổng thống Malawi.]] Malawi là một quốc gia dân chủ, đa đảng, hiện dưới sự lãnh đạo của Arthur Peter Mutharika, người đã chiến thắng cựu tổng thống Joyce Banda trong cuộc bầu cử năm 2014.

Phân chia hành chính

File:MW-Districts.svg|right|A clickable map of Malawi exhibiting its 28 districts.

rect 50 19 73 40 Huyện Chitipa rect 75 37 94 53 Huyện Karonga rect 203 189 224 219 Huyện Likoma rect 140 192 162 215 Huyện Likoma rect 50 146 81 172 Huyện Mzimba rect 90 166 116 191 Huyện Nkhata Bay rect 74 95 103 119 Huyện Rumphi rect 109 358 129 380 Huyện Dedza rect 89 314 105 332 Huyện Dowa rect 40 256 62 287 Huyện Kasungu rect 63 336 90 367 Huyện Lilongwe rect 15 312 35 336 Huyện Mchinji rect 101 253 121 278 Huyện Nkhotakota rect 143 405 161 422 Huyện Ntcheu rect 83 285 99 306 Huyện Ntchisi rect 125 322 140 344 Huyện Salima rect 166 421 188 439 Huyện Balaka rect 160 467 180 482 Huyện Blantyre rect 142 501 168 521 Huyện Chikwawa rect 186 475 198 488 Huyện Chiradzulu rect 207 415 230 435 Huyện Machinga rect 182 378 208 402 Huyện Mangochi rect 206 489 230 508 Huyện Mulanje rect 131 454 155 474 Huyện Mwanza rect 171 541 199 560 Huyện Nsanje rect 177 497 197 519 Huyện Thyolo rect 215 468 238 483 Huyện Phalombe rect 195 446 217 462 Huyện Zomba

desc bottom-left

Malawi được chia thành 28 huyện trong ba vùng:

Địa lý

thumb|Miền núi Bắc Malawi vào mùa mưa thumb|Mặt trời lặn trên hồ Malawi Malawi là một quốc gia không giáp biển nằm ở Đông Nam Phi, giáp Zambia về phía tây bắc, Tanzania về phía đông bắc và Mozambique về phía nam, tây nam và đông nam. Nó toạ lạc giữa vĩ tuyến 9° và 18°N và kinh tuyến 32° và 36°Đ.

Thung lũng Tách giãn Lớn chạy theo chiều bắc nam dọc chiều dài đất nước, và ở miền đông thung lũng là hồ Malawi (còn gọi là hồ Nyasa), tạo nên ba phần tư biên giới phía đông của Malawi. Sông Shire chảy từ cực nam của hồ và đổ vào sông Zambezi tại Mozambique. Mặt hồ Malawi cao trên mực nước biển; độ sâu tối đa của hồ là khoảng , nghĩa là đáy hồ nằm ở dưới mực nước biển.

thumb|alt=Two small dugout canoes on the shore of a lake|Bờ hồ Malawi Tài vùng núi vây quanh thung lũng Tách giãn, các cao nguyên thường cao từ trên mực nước biển, dù một số đạt đến ở phía bắc. Phía nam hồ Malawi là cao nguyên Shire, cao khoảng . Trong khi vực này, đỉnh núi Zomba và Mulanje lần lượt đạt .

Khi hậu nóng ở những vùng thấp miền nam và ông hòa ở những cao nguyên miền bắc. Nếu không bị địa hình biến đổi, nơi này sẽ có khí hậu xích đạo. Từ tháng 11 đến tháng 4, nhiệt độ ấm áp với những cơn mưa nhiệt đới và sấm, mùa bảo đạt đỉnh cào cuối tháng 3. Sau tháng 3, lượng mưa giảm nhanh.

Những vùng sinh thái gồm đồng cỏ nhiệt đới và cận nhiệt đới, xa van, rừng cây bụi miombo, rừng mopane, và đồng cỏ ngập nước.

Có năm vườn quốc gia, bốn khu bảo tồn tự nhiên và hai khu vực được bảo vệ khác tại Malawi.

Kinh tế

Malawi là một trong những nước kém phát triển nhất trên thế giới. Khoảng 85% dân số sống ở nông thôn. Nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, chiếm hơn một phần ba GDP và gần 90% doanh thu xuất khẩu. Trong quá khứ, nền kinh tế đã phụ thuộc vào sự trợ giúp kinh tế đáng kể từ Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và các quốc gia khác. Malawi được xếp hạng là điểm đến đầu tư an toàn thứ 119 trên thế giới trong bảng xếp hạng rủi ro quốc gia Euromoney tháng 3 năm 2011.

Vào tháng 12 năm 2000, IMF đã ngừng giải ngân viện trợ do những lo ngại về tham nhũng, và nhiều nhà tài trợ cá nhân sau đó dẫn đến việc giảm 80% ngân sách phát triển của Malawi. Tuy nhiên, năm 2005, Malawi nhận được hơn 575 triệu USD viện trợ. Chính phủ Malawi phải đối mặt với những thách thức trong việc phát triển kinh tế thị trường, cải thiện bảo vệ môi trường, đối phó với vấn đề HIV/AIDS ngày càng tăng nhanh, cải thiện hệ thống giáo dục và thỏa mãn các nhà tài trợ nước ngoài đang hoạt động độc lập về tài chính.

Ngoài một số trở ngại đã nêu, Malawi đã mất một số khả năng thanh toán cho hàng nhập khẩu do thiếu ngoại tệ chung, khi đầu tư giảm 23% trong năm 2009. Có nhiều rào cản đầu tư ở Malawi khó giải quyết được bao gồm chi phí dịch vụ cao, cơ sở hạ tầng nghèo nàn cho điện, nước và viễn thông. Nhiều nhà phân tích cho rằng tiến bộ kinh tế của Malawi phụ thuộc vào khả năng kiểm soát tăng trưởng dân số.

Vào tháng 1 năm 2015, miền nam Malawi đã bị tàn phá bởi lũ lụt tồi tệ nhất trong lịch sử,làm ít nhất 20.000 người mắc kẹt. Những trận lũ lụt này ảnh hưởng đến hơn một triệu người trên toàn quốc, bao gồm 336.000 người phải di tản, theo UNICEF. Hơn 100 người thiệt mạng và ước tính 64.000 ha đất trồng trọt bị cuốn trôi.

Nông nghiệp và công nghiệp

Dân cư

thumb|Trẻ em tại Chilowamatambe, huyện Kasungu, Malawi Malawi có dân số trên 15 triệu người, với tỷ lệ gia tăng 2,75%, theo ước tính 2009. Dân số được dự đoán sẽ đạt hơn 45 triệu vào năm 2050, tức gấp ba lần dân số 16 triệu (ước tính) của năm 2010.

Các dân tộc chính tại Malawi là người Chewa, người Nyanja, người Tumbuka, người Yao, người Lomwe, người Sena, người Tonga, người Ngoni và người Ngonde; cũng có những cộng đồng người châu Á và châu Âu. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh.

Đô thị

Tôn giáo

Cư dân Malawi chủ yếu theo Kitô giáo, với một lượng thiểu số người theo Hồi giáo đáng kể, dù không có con số chính xác. Theo Dự án Tôn giáo Malawi thực hiện bởi Đại học Pennsylvania năm 2010, khoảng 68% theo Kitô giáo, 25% theo Hồi giáo và 5% "khác". Nghiên cứu cũ hơn của CIA (1998) ghi nhận rằng 82% theo Kitô giáo, và 13% theo Hồi giáo. Các nhánh Kitô giáo lớn nhất tại Malawi là Công giáo La Mã và Giáo hội Trưởng Nhiệm Trung Phi (CCAP, một nhóm Tin Lành). Người theo Tin Lành chiếm một nửa dân số, trong khi tín đồ Công giáo chiếm một phần năm. CCAP là nhóm Tin Lành lớn nhất tại Malawi với 1,3 triệu thành viên. Có những nhóm Giáo hội Trưởng Nhiệm nhỏ hơn như Giáo hội Trưởng Nhiệm Cải cách Malawi và Giáo hội Trưởng Nhiệm phái Phúc Âm Malawi. Giáo hội Luther Trung Phi có hơn 39.000 thành viên tại Malawi. Cũng có một số nhỏ hơn người theo Anh giáo, Báp-tít, Nhân Chứng Giê-hô-va, Giáo hội Cơ Đốc Phục Lâm.

Đa số người Hồi giáo theo dòng Sunni, hoặc Qadriya hoặc Sukkutu với số ít theo Ahmadiyya.

Văn hóa

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Malawi** ( hay [maláwi]), tên chính thức **Cộng hòa Malawi**, là một quốc gia có chủ quyền không giáp biển tại Đông Nam Phi, từng được gọi là Nyasaland. Malawi giáp với Zambia về phía
**Hồ Malawi** (cũng gọi là **Hồ Nyasa** hoặc **Hồ Nyassa**, **Hồ Niassa**, hay **Lago Niassa** ở Mozambique), là một trong các hồ Lớn châu Phi. Hồ này nằm ở vùng cực nam của hệ Thung
**Nền kinh tế Malawi** chủ yếu là nông nghiệp với khoảng 90% dân số sống ở các vùng nông thôn. Quốc gia không giáp biển ở nam trung Phi này nằm số các nước kém
**Vườn quốc gia hồ Malawi** là một vườn quốc gia nằm ở cuối phía nam của hồ Malawi, thuộc lãnh thổ Malawi. Đây là vườn quốc gia duy nhất ở Malawi được thành lập để
**Air Malawi Limited** (mã IATA = **QM**, mã ICAO = **AML**) là hãng hàng không quốc gia của Malawi, trụ sở đặt tại Blantyre, Malawi. Hãng có căn cứ chính ở Sân bay quốc tế
thumbnail|Dấy nhập cảnh Malawi Du khách đến **Malawi** phải xin thị thực từ một trong những phái vụ ngoại giao Malawi trừ khi họ đến từ một trong những quốc gia được miễn thị thực
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Malawi** () là đội tuyển cấp quốc gia của Malawi do Hiệp hội bóng đá Malawi quản lý. Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Malawi
**Hiệp hội bóng đá Malawi** () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Malawi. Hiệp hội quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Malawi và tổ chức giải
**Cuộc bầu cử tổng thống** được tổ chức tại Malawi vào ngày 23 tháng 6 năm 2020, ban đầu được lên kế hoạch vào ngày 19 tháng 5 và sau đó là ngày 2 tháng
Đây là **danh sách không đầy đủ các câu lạc bộ bóng đá ở Malawi**. _Về danh sách đầy đủ, xem :Thể loại:Câu lạc bộ bóng đá Malawi_ ## B *BE FORWARD Wanderers (Blantyre) *Blackpool
**Malawi** đã tham dự 10 kỳ Thế vận hội Mùa hè và chưa từng tham gia Thế vận hội Mùa đông. Malawi tẩy chay các kỳ Olympic Mùa hè năm 1976 và 1980. Quốc gia
**Quốc kỳ Malawi** () hiện tại được sử dụng từ ngày 29 tháng 7 năm 2010, sau khi chính phủ do Đảng Tiến bộ Dân chủ cầm quyền đề nghị một lá quốc kỳ mới.
Đại dịch COVID-19 đã được xác nhận đến Malawi vào ngày 02 tháng 4 năm 2020. ## Dòng thời gian Tổng thống Peter Mutharika đã xác nhận ba trường hợp mắc bệnh COVID-19 đầu tiên
**_Synolcus malawi_** là một loài ruồi trong họ Asilidae. _Synolcus malawi_ được Londt miêu tả năm 1990. Loài này phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi.
**_Neolophonotus malawi_** là một loài ruồi trong họ Asilidae. _Neolophonotus malawi_ được Londt miêu tả năm 1988. Loài này phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi.
**_Afromochtherus malawi_** là một loài ruồi trong họ Asilidae. _Afromochtherus malawi_ được Londt miêu tả năm 2002. Loài này phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi.
_'Quyền đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và chuyển giới ở Malawi_ phải đối mặt với những thách thức pháp lý mà những người không phải LGBT không gặp phải. Bộ luật Hình
**Hastings Kamuzu Banda** (15 tháng 2 năm 1898 – 25 tháng 11 năm 1997) là người đứng đầu quốc gia Malawi từ năm 1961 cho đến 1994. Sau phần lớn thời gian đi học ở
**Emmie Takomana Chanika** (26 tháng 5 năm 1956 - 29 tháng 7 năm 2022) [https://malawi24.com/2022/07/29/human-rights-activist-emmie-chanika-dies/] là một nhà hoạt động nhân quyền người Malawi. Là một y tá đã đăng ký được đào tạo, Chanika
**Lazarus McCarthy Chakwera** (sinh ngày 5 tháng 4 năm 1955) là một Malawi một nhà thần học và chính trị gia đã trở thành Tổng thống Malawi vào tháng 6 năm 2020. Ông là lãnh
Lì Xì Tết Độc với bộ tiền thật 52 tờ tiền 28 nước trên thế giới được sưu tầm từ nhiều quốc gia trên thế giới các bạn ơi!Hãy gom hết may mắn của 28
**Đảo Likoma** là đảo lớn hơn trong hai hòn đảo có người ở trong hồ Malawi, đảo nhỏ hơn là đảo Chizumulu gần đó và hai đảo tạo thành huyện Likoma. Cả hai hòn đảo
**Vera Mlangazua Chirwa** (sinh năm 1932) là một luật sư người Malawi và là nhà hoạt động nhân quyền và dân quyền. Bà là nữ luật sư đầu tiên của Malawi và là thành viên
**Cecilia Tamanda Kadzamira** GCVO (sinh ngày 25 tháng 6 năm 1938) là nữ tiếp viên chính thức của Malawi dưới sự trị vì của Kamuzu Banda. Trong khi bà và Tiến sĩ Banda đã không
**Chizumulu** là đảo nhỏ hơn trong hai hòn đảo có người ở trong hồ Malawi, đảo lớn hơn là đảo Likoma gần đó và hai đảo tạo thành huyện Likoma. Cả hai hòn đảo chỉ
**Joyce Banda Hilda** là một chính trị gia Malawi giữ chức Tổng thống Malawi kể từ ngày 07 tháng 4 năm 2012. Là một nhà hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và quyền bình
**Catherine Mary Ajizinga Chipembere** (b 1935) là một nhà hoạt động và chính trị gia về giới ở Malawi. bà sinh năm 1935 tại Malawi. bà là vợ của người theo chủ nghĩa dân tộc
**Blandina Kondowe, tên khai sinh là** Blandina Mlenga, được biết đến với vai trò Hoa hậu Malawi 2002 và là người sáng lập chiến dịch Think Pink - Malawi về nhận thức ung thư vú.
Nshima/nsima (góc trên bên phải) cùng với ba [[món ăn đi kèm]] **Nshima** hay **Nsima** là một món ăn làm từ bột ngô (bột ngô trắng) và nước và là một thực phẩm thiết yếu
**Theresa Kachindamoto** là thị trưởng tối cao, còn gọi là _Inkosi,_ của Quận Dedza nằm ở khu vực trung tâm của Malawi. Cô quản lý không chính thức hơn 900.000 người. Cô được biết đến
**Martha Kwataine** là một nhà vận động về sức khỏe và nhân quyền của Malawi. Cô đồng thời là người sáng lập và cựu giám đốc điều hành của Mạng lưới Công bằng Y tế
**Sân vận động Kamuzu** () là một sân vận động đa năng ở Blantyre, Malawi. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động có sức chứa
**Vườn quốc gia Liwonde**, còn gọi là **Khu bảo tồn Động vật Hoang dã Liwonde**, là một vườn quốc gia ở miền nam Malawi, gần biên giới Mozambique. Vườn quốc gia này được thành lập
**Angela Zachepa-Muluzi** (sinh năm 1983) là một kế toán viên và chính trị gia người Malawia. Cô là cựu thành viên của Quốc hội cho khu vực Đông Bắc Blantyre. Năm 2004, Zachepa được bầu
**_Copadichromis borleyi_** là một loài cá hoàng đế đặc hữu ở hồ Malawi của khu vực Đông Phi. Đây là cá cảnh phổ biến thường được nhiều người nuôi cá lựa chọn Nó có nhiều
**Rachel Chimwemwe Sibande** (sinh ngày 9 tháng 1 năm 1986) là một chuyên gia công nghệ, nhà khoa học máy tính, nhà giáo dục STEM và doanh nhân người Malawia ## Thơ ấu và giáo
**Sân vận động Quốc gia Bingu** () ở Lilongwe là sân vận động quốc gia của Malawi. Sân được sử dụng cho các trận đấu bóng đá và cũng có đường chạy điền kinh. Sân
**Hồ Chilwa** là hồ lớn thứ hai ở Malawi, sau hồ Malawi. Nó nằm ở phía tây quận Zomba, gần biên giới với Mozambique. Nó dài khoảng 50 km theo chiều bắc-nam và rộng khoảng 35 km
**Gertrude Webster Kamkwatira** (c 1966 -. 2006) là một nhà viết kịch, đạo diễn và diễn viên người Malawi. ## Đời sống Kamkwatira sinh vào khoảng năm 1966. Cô trở thành giám đốc của Nhà
William Kamkwamba sinh ra tại Malawi nơi ma thuật vẫn thống trị còn khoa học là điều bí ẩn. Đây cũng là vùng đất kiệt quệ vì hạn hán và nạn đói. Nhưng William đã
William Kamkwamba sinh ra tại Malawi nơi ma thuật vẫn thống trị còn khoa học là điều bí ẩn. Đây cũng là vùng đất kiệt quệ vì hạn hán và nạn đói. Nhưng William đã
William Kamkwamba sinh ra tại Malawi nơi ma thuật vẫn thống trị còn khoa học là điều bí ẩn. Đây cũng là vùng đất kiệt quệ vì hạn hán và nạn đói. Nhưng William đã
**Hồ Malombe** là hồ lớn thứ ba ở miền nam Malawi, sau hồ Malawi và hồ Chilwa. Nó được cấp nước bởi sông Shire, tại Southern Region. Trung tâm hồ nằm ở tọa độ khoảng
**.mw** là tên miền quốc gia cấp cao nhất (ccTLD) của Malawi. Vào năm 2002 IANA đã đề nghị nhà quản lý tên miền quốc gia sẽ được chuyển đến Malawi Sustainable Development Network Programme
**Lilongwe** là thành phố ở miền trung Malawi, là thủ đô của quốc gia này và cũng là thủ phủ của Vùng miền Trung Lilongwe, bên bờ sông Lilongwe, gần biên giới với Mozambique và
**Blantyre** là thành phố ở phía nam Malawi, là trung tâm hành chính của vùng phía nam và quận Blantyre. Thành phố này nằm bên sông Shire. Đây là thành phố lớn nhất của Malawi
**_Aulonocara baenschi_** là một loài cá thuộc họ Cichlidae. Nó là loài đặc hữu của Malawi. Môi trường sống tự nhiên của chúng là hồ nước ngọt.
**Nyasaland**, hay **Xứ bảo hộ Nyasaland**, là xứ bảo hộ của Anh tại châu Phi được thành lập năm 1907 sau khi Xứ bảo hộ Trung Phi thuộc Anh (_British Central Africa Protectorate_) đổi tên.
**_Copadichromis atripinnis_** là một loài cá thuộc họ Cichlidae. Nó là loài đặc hữu của Malawi. Môi trường sống tự nhiên của chúng là hồ nước ngọt. ## Nguồn * Kasembe, J. 2005. [http://www.iucnredlist.org/search/details.php/60864/all Copadichromis
**Cá láng** **Malawi** (_Lichnochromis acuticeps_) là một loài cá săn mồi thuộc họ Cá hoàng đế đặc hữu của Hồ Malawi. Loài này có thể đạt chiều dài 30 cm. Nó cũng có thể được tìm