✨Danh sách thủ đô và thủ phủ tại Hoa Kỳ
Đây là một danh sách các thủ đô và thủ phủ tại Hoa Kỳ, bao gồm các thủ phủ và thủ đô của tất cả các tiểu bang, lãnh thổ, vương quốc, và thuộc địa xưa và nay trên toàn lãnh thổ mà ngày nay là Hoa Kỳ.
Thành phố được chọn làm thủ đô hay thủ phủ cho một vùng nào đó có thể thay đổi theo thời gian, tiêu biểu trong thời gian phát triển dân số nhanh hay thời gian chính quyền bất ổn vì chiến tranh trong vùng. Khi các lãnh thổ bị phân chia ra thành những tiểu bang nhỏ hơn, đặc biệt là trong thế kỷ 19, thì các thủ phủ mới cũng cần được chọn cho các tiểu bang mới thành lập.
Thủ phủ và thủ đô hiện tại
Thủ đô quốc gia
Washington, D.C. là Thủ đô quốc gia của Hoa Kỳ từ năm 1800. Trước năm 1800 thủ đô của Mỹ là Philadelphia, PARIS
Thủ phủ tiểu bang
:Để xem các cựu thủ phủ tiểu bang Hoa Kỳ, xin xem Các cựu thủ phủ tiểu bang ở phía dưới. :Để xem thêm thông tin về các tiểu bang, xin xem Tiểu bang Hoa Kỳ.
Bảng danh sách các thủ phủ tiểu bang của Hoa Kỳ không thay đổi kể từ năm 1910 khi Oklahoma City thay thế Guthrie thành thủ phủ của tiểu bang Oklahoma. Bốn tiểu bang được công nhận là tiểu bang của Hoa Kỳ sau năm 1910 (Arizona và New Mexico năm 1912 và Alaska, Hawaii năm 1959), nhưng thủ phủ của bốn tiểu bang này vẫn giữ nguyên giống như khi còn là lãnh thổ từ trước năm 1910. Có thể là sẽ không có bất cứ tiểu bang nào hiện tại sẽ đổi thủ phủ trong tương lai gần vì tổn phí khá cao cho việc di chuyển chính quyền sang thủ phủ mới.
33 trong 50 tiểu bang, thủ phủ tiểu bang hiện tại không phải là thành phố đông dân nhất tiểu bang.
Trong bảng sau đây có ghi năm mà từ đó thủ phủ hiện tại vẫn liên tục là thủ phủ duy nhất. Trong số chín tiểu bang được ghi chú dưới đây, thủ phủ hiện tại đã là thủ phủ trước kia, nhưng có một số thành phố khác đã làm thủ phủ tạm thời.
Thủ phủ vùng quốc hải
Một vùng quốc hải là một lãnh thổ của Hoa Kỳ mà không phải là một phần của bất cứ 50 tiểu bang nào của Hoa Kỳ và cũng không phải là một phần của Đặc khu Columbia, địa phận liên bang của quốc gia. Chỉ năm trong 14 vùng quốc hải là có dân cư; năm vùng này được liệt kê dưới đây. Có thêm ba quốc gia liên kết tự do (Cộng hòa Quần đảo Marshall, Liên bang Micronesia, Cộng hoà Palau) và thêm năm vùng tranh chấp giữa Hoa Kỳ và các quốc gia khác; xem Vùng quốc hải để biết thêm chi tiết.
Các cựu thủ đô quốc gia
Hoa Kỳ Tập tin:Flag of the United States.svg
Từ năm 1765 đến 1800, Quốc hội Hoa Kỳ đã họp ở nhiều địa điểm khác nhau; vì thế, các thành phố sau đây có thể được nói từng là thủ đô của Hoa Kỳ:
;Quốc hội Đạo luật Con dấu (Stamp Act Congress)
- Thành phố New York, New York: Tháng 10 năm 1765
;Đệ nhất Quốc hội Lục địa (First Continental Congress)
- Philadelphia, Pennsylvania: 5 tháng 9 năm 1774 đến 24 tháng 10 năm 1774.
;Đệ nhị Quốc hội Lục địa (Second Continental Congress)
- Philadelphia, Pennsylvania: 10 tháng 5 năm 1775 đến 12 tháng 12 năm 1776
- Baltimore, Maryland: 20 tháng 12 năm 1776 đến 27 tháng 2 năm 1777
- Philadelphia, Pennsylvania: 4 tháng 3 năm 1777 đến 18 tháng 9 năm 1777
- Lancaster, Pennsylvania: 27 tháng 9 năm 1777 (một ngày)
- York, Pennsylvania: 30 tháng 9 năm 1777 đến 27 tháng 6 năm 1778
- Philadelphia, Pennsylvania: 2 tháng 7 năm 1778 đến 1 tháng 3 năm 1781
;Các điều khoản Liên hiệp (Articles of Confederation)
- Philadelphia, Pennsylvania: 1 tháng 3 năm 1781 đến 21 tháng 6 năm 1783
- Princeton, New Jersey: 30 tháng 6 năm 1783 đến 4 tháng 11 năm 1783
- Annapolis, Maryland: 26 tháng 11 năm 1783 đến 19 tháng 8 năm 1784
- Trenton, New Jersey: 1 tháng 11 năm 1784 đến 24 tháng 12 năm 1784
- New York, New York: 11 tháng 1 năm 1785 đến mùa thu năm 1788
;Hiến pháp
- New York City, New York: 4 tháng 3 năm 1789 đến 5 tháng 12 năm 1790
- Philadelphia, Pennsylvania: 6 tháng 12 năm 1790 đến 14 tháng 5 năm 1800
- New York City, New York: 15 tháng 5 năm 1800 đến 16 tháng 11 năm 1800
- Washington, D.C.: 17 tháng 11 năm 1800 đến hiện tại
- Leesburg, Virginia: Tháng 9 năm 1814 - Khi George Washington bị người Anh bãi chức trong Chiến tranh năm 1812, toàn bộ chính quyền cùng với các tài liệu và hồ sơ bao gồm Hiến pháp và Tuyên ngôn Độc lập đào tẩu sang Virginia và lánh nạn trong khu tự quản Leesburg
Cộng hòa Vermont Tập tin:Flag of the Vermont Republic.svg
Trước khi gia nhập vào Hoa Kỳ như tiểu bang thứ 14, Vermont là một cộng hòa độc lập được biết với tên gọi Cộng hòa Vermont. Hai thành phố phục vụ như thủ đô của nước cộng hòa này:
- Westminster, 1777
- Windsor, 1777-1791
Vương quốc và Cộng hòa Hawaii border
Trước khi trở thành lãnh thổ của Hoa Kỳ năm 1898, Hawaii là một quốc gia độc lập. Hai thành phố phục vụ như thủ đô của nó:
- Lāhainā là thủ đô của Vương quốc Hawaii, 1820–1845.
- Honolulu Là thủ đô của Vương quốc Hawaii, 1845–17 tháng 1 năm 1893. Là thủ phủ của Chính phủ Lâm thời Hawaii sau khi chế độ quân chủ của Hawaii bị lật đổ ngày 17 tháng 1 năm 1893 đến 4 tháng 7 năm 1894. ** Là thủ đô của Cộng hòa Hawaii khi nó được thành lập ngày 4 tháng 7 năm 1894 cho đến khi Cộng hòa này bị sáp nhập vào Hoa Kỳ ngày 7 tháng 7 năm 1898 dưới Giải pháp Newlands để trở thành Lãnh thổ Hawaii.
Cộng hòa Texas border
Trước khi gia nhập Hoa Kỳ vào năm 1845, Texas là một quốc gia độc lập được biết như là Cộng hòa Texas. 7 thành phố phục vụ như thủ đô của nó là:
- Washington (bây giờ là Washington-on-the-Brazos), 1836
- Harrisburg, 1836
- Galveston, 1836
- Velasco, 1836
- Columbia, 1836
- Houston, 1837–1839
- Austin, 1839–1845
Cộng hòa California border
Trước khi bị sáp nhập vào Hoa Kỳ năm 1846, California là một cộng hòa độc lập được biết như là Cộng hòa California. Cộng hòa California chưa bao giờ được Hoa Kỳ công nhận. Lúc đó Hoa Kỳ luôn cho rằng chính phủ quân sự Hoa Kỳ có tổng hành dinh ở Monterey là chính quyền hợp pháp của vùng. Có một thủ đô de facto của Cộng hòa California:
- Sonoma, 1846
Liên minh các tiểu bang miền nam Hoa Kỳ border
Liên minh các tiểu bang miền nam Hoa Kỳ (Confederate States of America) có ba thủ đô trong lúc tồn tại.
Đại hội Hiến pháp của Liên minh được tổ chức tại Montgomery, Alabama vào tháng 12 năm 1860 vì nó là thành phố có ảnh hưởng và rộng lớn nhất về mặt địa lý ở trung tâm 7 tiểu bang Liên minh ban đầu (Nam Carolina, Georgia, Alabama, Florida, Mississippi, Louisiana và Texas) có kế hoạch rút lui khỏi Liên bang.
Thủ đô đầu tiên của Liên minh được thiết lập vào ngày 4 tháng 2 năm 1861 tại Montgomery và ở đó cho đến khi nó được dời về Richmond sau khi Virginia gia nhập Liên minh ngày 23 tháng 5 năm 1861.
Khi Binh đoàn Bắc Virginia bị đẩy lui xa về miền nam và Richmond rơi vào tay quân đội Liên bang đầu năm 1865, chính phủ Liên minh dùng con đường sắt duy nhất còn sử dụng được tháo chạy về Danville ngày 2 tháng 4 năm 1865.
Các thủ phủ tiểu bang của Liên minh vẫn như củ khi mỗi tiểu bang ly khai khỏi Liên bang. Một vài thủ phủ được dời đi tạm thời trong một nỗ lực tránh xa các cuộc tiến công của quân đội Liên bang. Khi các vùng của Liên minh bị chiếm đóng, Quân đội Hoa Kỳ thiết lập các quân khu để tiếp quản mỗi vùng. Các quân khu này thường hay di dời theo nhịp độ tiến triển của cuộc chiến.
Sau khi Tướng Robert E. Lee đầu hàng tại Appomattox, Virginia và kết thúc Nội chiến Hoa Kỳ ngày 9 tháng 4 năm 1865, mười một tiểu bang miền nam ly khai khỏi Hoa Kỳ để tại nên Liên minh các tiểu bang miền nam Hoa Kỳ dần dần có các Thương nghị sĩ và Dân biểu của họ được Quốc hội Hoa Kỳ công nhận. Bắt đầu là tiểu bang Tennessee ngày 24 tháng 7 năm 1866, kế là Arkansas ngày 22 tháng 6 năm 1868, Louisiana, Florida, Bắc Carolina và Nam Carolina ngày 25 tháng 6 năm 1868, tiếp theo là Alabama ngày 14 tháng 7 năm 1868, kế tiếp là Virginia ngày 26 tháng 1 năm 1870, tiếp theo là Mississippi ngày 23 tháng 2 năm 1870, tiếp theo là Texas ngày 30 tháng 3 năm 1870 và cuối cùng là Georgia ngày 15 tháng 7 năm 1870.
- Montgomery, Alabama, 4 tháng 2 năm 1861 - 29 tháng 5 năm 1861
- Richmond, Virginia, 6 tháng 5 năm 1861 (tuyên bố) – 3 tháng 4 năm 1865
- Danville, Virginia, 3 tháng 4 năm 1865 - 10 tháng 4 năm 1865
Cựu thủ phủ tiểu bang
Đa số mười ba thuộc địa ban đầu có thủ phủ bị người Anh chiếm đóng hay tấn công trong Cuộc cách mạng Mỹ. Chính quyền tiểu bang phải hoạt động ở bất cứ nơi nào mà họ có thể. Thành phố New York bị quân đội Anh chiếm đóng từ năm 1776 đến 1783. Tình hình tương tự xảy ra trong Chiến tranh năm 1812, trong Nội chiến Hoa Kỳ tại các bang liên hiệp miền nam, và trong Cuộc nổi loạn Pueblo năm 1680-1692 tại New Mexico.
Hai mươi hai thủ phủ tiểu bang đã và đang là thủ phủ lâu đời hơn các tiểu bang của chúng được trở thành tiểu bang vì chúng đã phục vụ như thủ phủ của một lãnh thổ, thuộc địa, hay nước cộng hòa tiền nhiệm. Boston, Massachusetts là một thành phố thủ phủ liên tục kể từ năm 1630, như vậy nó là thủ phủ lâu dài và liên tục nhất của Hoa Kỳ. Santa Fe, New Mexico là một thành phố thủ phủ lâu dài nhất mà đã trở thành thủ phủ vào năm 1610 và chỉ bị gián đoạn bởi Cuộc nổi loạn Pueblo năm 1680-1692. Boston, Santa Fe, và Annapolis là ba thành phố Hoa Kỳ là thủ phủ trên 300 năm.
- Tiểu bang và thủ đô hiện tại được trình bày bằng chữ đậm.
- Năm ghi ra cho từng thủ phủ là năm khởi đầu; năm cuối là năm khởi đầu của một thủ phủ kế nhiệm, nếu không thì sẽ có ghi chú.
- Năm mà tình trạng tiểu bang được công nhận được trình bày bằng chữ đậm.