✨Cừu Merino Nam Phi

Cừu Merino Nam Phi

nhỏ|phải|Một con cừu SAMM Cừu lấy thịt Merino Nam Phi (tên tiếng Anh: South African Meat Merino hay viết tắt là SAMM) là một giống cừu lấy thịt cừu hoặc len có nguồn gốc ở Nam Phi, nhưng hiện nay đã tìm thấy trên khắp thế giới. Đây là một giống cừu kiêm dụng cho thịt, sữa và len nhưng thiên về hướng thịt.

Lịch sử

Các con cừu SAMM có nguồn gốc từ giống cừu Đức Merino Fleisch Scharf nhập khẩu vào Nam Phi từ châu Âu vào năm 1932, để nâng cao chất lượng của len và thịt từ cừu ở Nam Phi. Cừu Deutsche Fleisch Merino là một con chiên hướng thịt phổ biến ở Đức, Áo và Ba Lan. Ở Nam Phi, tên Đức đã được dịch sang tiếng Afrikaans như Duitse Vleis Merino và sau đó sang tiếng Anh là "cừu Merino Đức". Các giống ở Nam Phi đã được công nhận là giống riêng biệt trong năm 1971 khi tên đã được thay đổi đến cừu thịt Merino Nam Phi.

Trong đánh giá SAMMs trọng tâm là về liên quan đến sản xuất thịt, 60%, và không phải trên len của động vật (40%). SAMM rams đã gần như hoàn toàn thay thế giống của Anh như con đực đầu cuối trong vùng khắc nghiệt của Nam Phi, nơi chúng có nhiều khả năng thích nghi hơn so với các giống cũ. Chúng lần đầu tiên được nhập khẩu vào Australia vào năm 1996. Cũng trong năm 1996, Peggy Newman nhập khẩu phôi SAMM từ Nam Phi tạo bầy SAMM đầu tiên ở Canada. Trong năm 1999, Dwight và Gwendolyn Kitzan từ Nisland, Nam Dakota - Mỹ, nhập khẩu một trong phôi SAMM ram Newman 'và đã được phát triển các giống SAMM ở Mỹ sử dụng hàng đầu sản xuất SAMM Úc.

Đặc điểm

Các con cừu SAMM đã được phát triển như một, khỏe mạnh, được hỏi giống mục đích kiêm dụng linh hoạt. Cừu cái có một bản năng làm mẹ tốt và sản lượng sữa cao. Cừu trưởng thành sẽ tăng lên đến khoảng 95 kg (209 lb) và cừu đực đến hơn 100 kg (220 lb). Cừu sẽ sản xuất 3,5 kg (7,7 lb) đến 4,5 kg (9,9 lb) vừa /len mạnh. Các len được phân loại riêng từ len chất lượng cao của cừu Merino, để tránh nguy cơ nhiễm bẩn sau này Các con cừu SAMM được nhân giống đặc biệt để tạo ra một con cừu giết mổ ở tuổi (35 kg (77 lb) ở 100 ngày tuổi).

Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê. Chính vì vậy, thịt chúng nhiều nạc hơn thịt dê.

Chăn nuôi

Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ.

Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.

Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.

Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.

Chăm sóc

Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn...) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc.

Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%).

Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|phải|Một con cừu SAMM **Cừu lấy thịt Merino Nam Phi** (tên tiếng Anh: _South African Meat Merino_ hay viết tắt là _SAMM_) là một giống cừu lấy thịt cừu hoặc len có nguồn gốc ở
nhỏ|phải|Cừu Merino nhỏ|phải|Cừu Merino đực **Cừu Merino** là một giống cừu nổi tiếng về việc cho lông cừu làm len, đây là giống cừu có ảnh hưởng kinh tế được đánh giá cao. Các giống
**Giống cừu** là tập hợp các giống vật nuôi có nguồn gốc từ loài cừu nhà (Ovis aries). Đây là một trong những giống vật nuôi đa dạng được con người lai tạo, chọn giống
nhỏ|phải|Ile de france **Cừu Île Pháp** là một giống cừu nhà bản địa của khu vực Île-de-France gần Paris thuộc Pháp. Nó lần đầu tiên được phát triển tại một trường đại học thú y
nhỏ|phải|Xén lông cừu **Xén lông cừu** (_Sheep shearing_) là quá trình mà lông của những con cừu được cắt bỏ khỏi cơ thể chúng. Người thực hiện việc xén lông cừu được gọi là người
nhỏ|phải|Cừu Awassi **Cừu Awassi** (tiếng Ả Rập: عواسي) là một giống cừu địa phương ở Tây Nam Á có nguồn gốc ở các vùng sa mạc Ả Rập-Syria. Tên địa phương khác cũng có thể
nhỏ|phải|Border Leicester **Cừu Leicester biên giới** (tiếng Anh: Border Leicester) là một giống cừu có nguồn gốc ở Anh và chúng được nuôi lớn chủ yếu để lấy thịt cừu, chúng cũng nuôi để lây
nhỏ|phải|Cừu Berrichon de l indre **Cừu Berichon Indre** (tiếng Pháp: Berrichon de l'Indre) là một giống cừu có nguồn gốc từ Pháp. Con cừu đã có mặt trong một thời gian dài ở Berry, nơi
**Meatmaster** là một giống cừu bản địa trong nước của Nam Phi. Được nuôi vào đầu những năm 1990 với nguồn gốc từ nhiều giống cừu khác nhau, Meatmaster được tạo ra với mục tiêu
nhỏ|phải|Cừu Chios **Cừu Chios** là một giống cừu nhà với nguồn gốc cụ thể chưa biết mà hiện nay chúng được cho là có nguồn gốc từ Hy Lạp. Nó được phân loại như là
nhỏ|phải|Ba mẹ con cừu Coopworth tại [[Canterbury]] **Cừu Coopworth** là một giống cừu có nguồn gốc từ New Zealand. Đây là giống cừu được phát triển bởi một đội ngũ các nhà khoa học tại
nhỏ|phải|Cừu mượt **Cừu St.Croix** hay còn gọi là **cừu mượt** hay **cừu không lông** là một giống cừu có nguồn gốc từ Mỹ ở Quần đảo Virgin, và chúng được đặt tên theo tên hòn
nhỏ|phải|Cừu Wiltipoll trên cánh đồng **Cừu Wiltipoll** là một giống cừu nhà thuộc nhóm cừu khuyết sừng được phát triển ở Úc từ giống cừu Wiltshire có sừng với truyền của cừu Leicester biên giới,
**_The Amazing Race 11_** (có thể gọi là **_The Amazing Race: All-Stars_**) là mùa thứ 11 của chương trình truyền hình thực tế The Amazing Race. 11 đội đã đua từ những mùa trước và
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,
**_The Amazing Race 11_** (có thể gọi là **_The Amazing Race: All-Stars_**) is the 11th installment of the reality television show _The Amazing Race_. _The Amazing Race 11_ là mùa thứ 11 của chương trình
**Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London** (tiếng Anh: _The London School of Economics and Political Science_, viết tắt **LSE**), là một cơ sở nghiên cứu và giáo dục công lập chuyên về
**_Encanto: Vùng đất thần kỳ_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Encanto_**) là bộ phim hoạt hình máy tính thể loại nhạc kịch-kỳ ảo ra mắt vào năm 2021, được sản xuất bởi Walt Disney Animation Studios
**Costa Rica**, quốc hiệu là **Cộng hòa Costa Rica**, là một quốc gia tại Trung Mỹ, giáp với Nicaragua ở mặt Bắc, Panama ở phía Nam và Đông Nam, Thái Bình Dương ở phía Tây
thumb|right|Helena Rubinstein sinh ra tại ngôi nhà này ở [[Kraków, quận Kazimierz.]] **Helena Rubinstein** (khai sinh **Chaja Rubinstein**, 25 tháng 12 năm 1872 – 1 tháng 4 năm 1965) là một nữ doanh nhân người
[[Andes phủ tuyết phía trên trung tam Santiago]] **Santiago de Chile** (, "Santiago" là tên chỉ _Giacôbê, con của Zêbêđê_) hay gọi ngắn là **Santiago**, là thủ đô Chile và cũng là thành phố lớn
**_The Amazing Race 16_** là chương trình thứ 16 của loạt chương trình truyền hình thực tế, _The Amazing Race_. _The Amazing Race 16_ bao gồm 11 đội 2 người đã quen biết từ trước
nhỏ|Úc nhìn qua vệ tinh **Lịch sử Úc** đề cập đến lịch sử khu vực và nhân dân ở Thịnh vượng chung Úc và những cộng đồng bản địa và thuộc địa tiền thân của
**Phụ nữ ở Úc** đề cập đến sự hiện diện văn hóa và nhân khẩu học của phụ nữ ở Úc. Phụ nữ Úc đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của đất
**_Scorzoneroides_** là một chi thực vật có hoa trong họ Cúc (Asteraceae). Chi này được Conrad Moench thiết lập năm 1794. Nghiên cứu năm 2006 cho thấy _Leontodon_ nghĩa rộng là đa ngành, với phân