✨Cuộc nổi dậy Phan Bá Vành

Cuộc nổi dậy Phan Bá Vành

Cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành (bắt đầu: 1821?, kết thúc: 1827) là cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài nhất, phạm vi ảnh hưởng rộng nhất do Phan Bá Vành lãnh đạo nhằm chống lại đường lối cai trị của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.

Bối cảnh và nguyên nhân

Mặc dù các vua đầu triều Nguyễn có nhiều cố gắng, nhưng các mặt nông, công, thương,... đều suy đốn và đình trệ, làm cho các tầng lớp nhân dân mà đại bộ phận là dân lao động nghèo lâm vào cảnh sống ngày càng cơ cực. Chẳng những nhà Nguyễn không cải thiện được tình tình mà trái lại, ngày càng thêm rối ren.

Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giới địa chủ, nạn những nhiễu của giới quan lại, chế độ thu tô thuế và lao dịch khắc nghiệt, thêm vào đó là nạn thiên tai và ôn dịch xảy ra luôn... tất cả đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, càng làm bùng lên làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân nghèo đói ở khắp mọi miền đất nước chống lại chế độ cai trị của nhà Nguyễn.

Căn cứ sử biên niên của triều Nguyễn, thì chỉ tính trong nửa đầu thế kỷ 19 đã có gần 400 cuộc nổi dậy, trong đó riêng thời Minh Mạng có tới 254 cuộc, lớn nhất là các cuộc nổi dậy của: Lê Văn Khôi (1833-1836), Nông Văn Vân (1833-1836), Lê Duy Lương (1832-1838) và cuộc nổi dậy này.

Trong Đặng gia thế phả có đoạn chép: :...Nhân lúc triều Nguyễn nhu nhược, chuyên lo dùng của cải xây đắp thành quách cung điện, bê trễ đê điều, đồng ruộng nông trang luôn năm lụt lội, dân tình đói rách, làng mạc điêu tàn, nhũng loạn khắp nơi... Có ông Phan Bá Vành ở miền Thái Bình, nhân nạn đói năm 1821 tập hợp dân chúng chống lại triều đình, được dân đi theo, lập căn cứ chính ở Trà Lũ .

Sơ lược thân thế Bá Vành

Phan Bá Vành (?-1827) , tục gọi Ba Vành (vì là con thứ ba trong gia đình), sinh trưởng tại làng Minh Giám , thuộc huyện Vũ Tiên (nay là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình).

Cha ông làm nghề chèo đò và nuôi bán cá giống, nhưng vì cha mất sớm nên Phan Bá Vành phải sớm đi làm thuê để phụ nuôi sống gia đình.

Theo Ngô Thế Phả, ông tổ xa là Ngô Kinh, Ngô Từ (người làng Động Bàng huyện Yên Định tỉnh Thanh Hóa), vốn là khai quốc công thần đời vua Lê Thái Tổ. Ngô Từ là cha đẻ của Ngô Thục hoàng Thái hậu (mẹ đẻ Lê Thánh Tông). Đến khi sang nhà Mạc cướp ngôi, sợ bị hãm hại, đổi thành họ Phan chạy vào Trà Kế - Nghệ An, sau ra Phượng Lủ - Hưng Yên (hoặc Kim Lũ (Lủ), Hà Nội). Đời Phan Chính Nhiệm (Niệm) rời về đất Trà Lũ - Nam Định. Từ đời thứ 7, Phan Tấn Minh sang lập nghiệp ở làng Minh Giám, Vũ Tiên. Từ Phan Tấn Minh đến Phan Bá Vành là đời thứ 5.

Sau này Phan Bá Vành chọn Trà Lũ (Nam Định) làm căn cứ chính.

Trong một bài vè ở Thái Bình có câu:

:Minh Giám quê của Bá Vành :Mẹ tên là Vẻ, cha sinh chèo đò :''Thêm nghề bán cá con so, :Vành trên lưng mẹ nằm thò cổ ra...

Mẹ là Mai Thị Vẻ, quê làng Cội Khê (tức Hội Khê, huyện Vũ Tiên, Thái Bình).

Tương truyền, Phan Bá Vành là người rất khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và có tài ném lao. Minh đô sử chép "Vành sinh ra cánh tay dài khỏe như vượn, giỏi bắn, trên đùi mọc lông đen cứng như nhím, ăn khỏe hơn người có thể phóng mũi lao giết người cách ngoài 100 bộ, trăm lần không sai một, cầm bắp cày ném xa từ đầu đến cuối ruộng, bao giờ cũng trúng đích"

Diễn biến cuộc nổi dậy

Bất mãn vì đường lối cai trị của nhà Nguyễn, khoảng năm 1821, Phan Bá Vành tập hợp dân nghèo khổ vùng Nam Định, Thái Bình (tức vùng Sơn Nam Hạ cũ) nổi dậy chống triều đình nhà Nguyễn.

Với chủ trương "lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo", ngay từ giai đoạn đầu, người đi theo đã có hơn 5.000, về sau thêm mấy ngàn quân của thủ lĩnh Ba Hùm (người Mường) từ thượng du Thanh Hóa cùng với quân nổi dậy ở các tỉnh lân cận kéo đến hiệp lực, thì lực lượng của ông đã lên đến hàng vạn.

Những năm 1824-1825, nạn đói diễn ra ở Hải Dương, Sơn Nam; khiến dân nghèo theo ông càng đông. Lại được sự giúp đỡ của Nguyễn Hạnh (tướng cũ của nhà Tây Sơn, được Ba Vành phong chức hữu quân), Vũ Đức Cát (quan nhà Nguyễn bị cách chức), Ba Hùm (thủ lĩnh người Mường)... và một số nhân vật có tiếng ở địa phương như Trần Bá Hựu, Hai Đáng, Chiêu Liễn,... nên thanh thế Ba Vành ngày càng tăng. Bởi vậy sau này trong Vè Ba Vành ở vùng Thái Bình có câu: :''Nghênh ngang một cõi biên thùy, :Thiếu gì tướng tá, thiếu gì binh lương...

Tháng 2 (âm lịch) năm Minh Mạng thứ 7 (1826), từ đại bản doanh tại thôn Phú Nhai, thuộc làng Trà Lũ (nay thuộc 3 xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân Phương huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định), Phan Bá Vành dẫn quân đi đánh chiếm đồn Trà Lý và đồn Lân Hải (Kiến Xương, thuộc Thái Bình), giết được hai viên thủ ngự sứ là Đặng Đình Liễu và Nguyễn Trung Diễn. Tiếp đó, thủ lĩnh Ba Vành cho quân đánh lan ra vùng Kiến Xương, Vũ Tiên, Chân Ninh (thời Thành Thái đổi thành Trực Ninh)... Trấn thủ Sơn Nam Lê Mậu Cúc hay được, mang quân đến đàn áp. Hai bên giao chiến ác liệt tại Cồn Tiên (Tiền Hải). Đến khi trấn thủ Cúc tử trận, thì quân triều quăng vũ khí, bỏ thuyền bè mà chạy cả.

Nghe tin cấp báo, vua Minh Mạng sai thống chế Trương Phúc Đặng kéo quân ra Bắc để tiễu trừ. Đến nơi, tướng Phúc Đặng cho quân đánh bất ngờ Giao Thủy. Thua trận, quân sư Vũ Đức Cát chạy ra An Quảng, rồi đến xã Đông Hào thì bị bắt và bị giết ngay.

Tháng 12 (âm lịch) năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại tập hợp được hơn 5.000 quân, mang đi tấn công vào hai huyện là Tiên Minh và Nghi Dương thuộc tỉnh Hải Dương. Tiếp theo, hai ông liên kết với nhóm Tàu Ô để mở rộng hoạt động ra các vùng ven biển thuộc vịnh Bắc Bộ.

Liệu chống không nổi, trấn thủ Hải Dương là Nguyễn Đăng Huyên lại phải cầu cứu đến triều đình Huế. Vua Minh Mạng liền thăng cho Trương Văn Minh làm tiền phong đô thống chế chuyên quản lý Bắc thành, để hiệp đồng với tham hiệp Nghệ An là Nguyễn Hữu Thận coi việc quân.

Không yên tâm, nhà vua lại chuẩn cho tham hiệp Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, tham biện Nghệ An Nguyễn Đức Nhuận, quản cơ Thanh Hóa Vũ Văn Bảo, quản cơ Nghệ An Trương Văn Tín cùng mang quân thủy bộ và 14 chiến thuyền ra gấp Hải Dương hội tiễu.

Mặc dù vậy, đầu năm Đinh Hợi (1827), quân Ba Vành vẫn kiên trì hoạt động mạnh ở vùng phủ Thiên Trường (Nam Định) và phủ Bo (tức phủ thành Kiến Xương). Nhận được tấu sớ xin thêm quân, vua Minh Mạng bèn sai hậu quân phó tướng Ngô Văn Vĩnh mang hai vệ quân ở Kinh đô Huế, cùng một số lính thuộc vệ quân Thần Sách ở Nghệ An đi gấp ra Bắc.

Tính ra, vua Minh Mạng đã điều động hầu hết lực lượng quân đội ở Bắc thành, Nghệ An, Thanh Hóa và một phần ở Huế để đối phó với quân của Phan Bá Vành nhỏ|742x742px|Lược đồ căn cứ Trà Lũ, tại Nam Định

Tương truyền, có nhiều chỉ huy dưới quyền đã khuyên Phan Bá Vành nên đánh ngay lúc quân triều mới đến, tức lúc họ đang mệt nhọc và chuẩn bị chưa xong. Nhưng vì nghe theo lời người vợ lẽ là Trần Thị Tú (con gái của viên trấn thành Phủ Bo mà ông đã bắt được khi đánh chiếm nơi này), nên ông cứ đóng chặt cửa thành cố thủ.

Sau khi quân triều từ các nơi kéo về vây kín Trà Lũ, các tướng nhà Nguyễn liền cho phát pháo tấn công. Quân nổi dậy chống cự quyết liệt, bị chết quá nửa. Biết vợ lẽ thông đồng với đối phương là tướng Phạm Văn Lý, Ba Vành liền sai quân chém chết . thế=Sơ đồ một số địa danh liên quan khởi nghĩa Phan Bá Vành|nhỏ|806x806px|Sơ đồ một số địa danh trong khởi nghĩa Phan Bá Vành Một đêm, Ba Vành cho quân khơi một con ngòi chạy từ sông Cát thông đến sông Ngô Đồng (sau dân gian gọi con ngòi này là sông Thanh Quan - Cống Vành), để mở đường chạy ra biển. Rạng sáng, quân nổi dậy theo con đường thủy ấy ào ạt phá vây, nhưng rồi bị quân triều do Phan Bá Hùng chỉ huy chặn đánh tan tác hết.

Trong cơn binh lửa, Phan Bá Vành bị thương rồi bị bắt sống, cùng với 765 thuộc hạ. Trên đường áp giải, Phan Bá Vành cắn lưỡi tử tử, còn số quân lính trên đều bị xử cực hình.

Ngay sau đó, theo lệnh của vua Minh Mạng, làng Trà Lũ bị tháo dỡ phá hết nhà cửa, lũy tre, cây cối, không sót một thứ gì.

Các tướng tiêu biểu

Các tài liệu thường nói đến "Nam Hải thập bát tướng". Phan Bá Vành đã tập hợp thành phần quân khởi nghĩa gồm nhiều tầng lớp từ nông dân, hào phú, địa chủ, quan lại nhỏ, quan lại về hưu bất mãn, đô vật giỏi võ, người dân tộc và phụ nữ.

Nguyễn Hạnh

Ông người xã Nhân Dục, ông là tướng hữu quân, khởi nghĩa thất bại ông trốn ra bờ biển và mất tích.

Theo Gaultier trong cuốn Minh Mạng xuất bản Paris 1935, cho rằng Nguyễn Hạnh là tướng chiến đấu trung thành của Nguyễn Huệ. Khi Tây Sơn đổ ông chạy sang Lào, rồi sang Trung Quốc, đến đời Minh Mạng thì vượt biên về tụ quân khởi nghĩa cùng Ba Vành.

Phan Khánh

Người Trà Lũ, chỉ huy tiền đồn làng Trà Đông (xã Xuân Phương), đối diện trực tiếp với quân triều đình từ cửa Phong Miêu vào sông Cát Xuyên (xã Xuân Thành - Xuân Trường). Trận đánh ở Phong Miêu do Phan Khánh chỉ huy đã giết tướng Nguyễn Cúc của triều đình.

Ông có biệt tài đấu vật, sở trường kiếm thuật, để đầu trọc nên còn gọi là Đô đầu giáo. Thời Gia Long giữ chức Đội trưởng quân doanh, mãn hạn thì về.

"Cháu ngoại họ Phan có tên là Khánh (ý nói cháu ngoại Vũ Tân - đô vật Trà Lũ nổi tiếng đánh với Thống chế Nam Định tên Nhật) làm đội trưởng, mãn hạn dở về. Cuộc biến cố năm Đinh Hợi, bị Ba Vành hiệp trùng. Khi ra trận quan quân đem voi chiến đàn áp, quân giặc Vành đều chạy bạt, chỉ một mình Khánh cầm 2 cây gươm xông vào đánh voi, voi cuốn vòi chạy lui, biến thua thành được"
Hai Đáng

Người Trà Lũ Bắc, giữ chức Trưởng tả quân. Ông giỏi võ, khiên đao lừng lẫy, có tài ngoại giao, quân lương - còn gọi là Bát lương (Tống lương), biệt tài bơi lội, đã giao chiến với Thống chế Trương Phúc Đặng ở bến đò Mỹ Đồng (gần cầu Tân Đệ).

Ông chỉ huy căn cứ Đường Nhất - phía tây bắc làng Trà Bắc (xã Xuân Bắc) có thể tiến quân qua sông Hồng sang Thái Bình khi cần. Những mặt trận nào gay go quyết liệt đều cử Hai đáng đến gây thanh thế cho nghĩa quân.

Trận quyết chiến cuối cùng của nghĩa quân, Phan Bá Vành bị thương nặng vào vai và đùi, nghĩa quân tan vỡ. Hai Đáng cõng Vành chạy vào bãi sú vẹt Hoành Nha. Ông chạy băng qua ruộng lầy, hai giải khố bay thẳng băng về sau không lúc nào chùng xuống. Cứu chủ tướng thoát vây, Hai Đáng quay lại tiếp tục chiến đấu. Cuối cùng ông bị bắt cùng Chưởng tiền quân Chiêu Liễn cùng hơn 800 người và bị chém đầu

Trần Bất Hựu

Còn gọi là Trần Bá Hựu hay Ba Bất. Ông là con thứ 2 của Trần Bá Hổ và là cháu Phiêu kị uý Hoài viễn tướng quân Trần Tuấn triều Lê. Ông cùng Hai Đáng, Ba Hầm đón Phan Bá Vành về đóng đồn tại làng Trà Lũ. Chỉ huy phía nam đại bản doanh Trà Lũ từ cử sông Trà Thượng, sông Ninh cơ đến chợ Trung (xã Xuân Trung). Ông đã chỉ huy trận đánh ở Hậu Đồng - tha ma Kiên Lao (xã Xuân Tiến, Xuân Kiên -Xuân Trường), khi quân triều đình tấn công căn cứ Trà Lũ, từ cửa Trà Thượng - Ninh Cơ (Xuân Ninh - Xuân Trường)

Khi thua trận, ông chạy vào miếu thôn Ngọc Tỉnh, lấy mũ áo thần mặc vào rồi ngồi lên ngai thờ. Quan quân phát hiện ra bắt chém. Ông chửi mắng đến lúc chết. Vì thế mới có câu "Gan như gan Bất Hựu".

Từ đó nhân dân Ngọc Tỉnh (xã Xuân Kiên - Xuân Trường) có bài vị thờ Bất Hựu tục gọi là đền Bà Hội.

Anh ruột Bất Hựu là Trần Bá Sĩ tức Chiêu Võ cũng là tướng của Phan Bá Vành. Nay còn miếu thờ ở ngã ba thôn Đông Nhuệ (xã Xuân Trung) gọi là miếu ông Quận.

Vũ Đức Cát

Người làng Yên Đội Hạ, tổng Hà Cát này là Đông Cao - Tiền Hải - Thái Bình. Triều Nguyễn, ông giữ chức Thủ ngự sử của Ba Lạt, có công rất lớn khi đem 200 chiếc thuyền biển đóng giữ cửa Trà Lý mai phục quân triều đình. Lúc đánh chiếm đồn Trà Lý - Lân Hải ông đã ngoài 70 tuổi. Sau ông bị bắt, Tổng trấn băc thành là Nguyễn Hữu Thận chém đầu trước rồi nộp Minh Mạng nên bị giáng chức.

Một số tướng khác

Bà Trần Thị Tý ngừoi xã Quần Anh - Hải Hậu - Nam Định

Cụ Ba Điều, người họ Trần làng Dịch Diệp huyện Chân Ninh nay là xã Trực Chính - Trực Ninh - Nam Định.''

Còn quyển Đặng gia thế phả (đã dẫn trên), thì ghi năm 1821.

Vậy, rất có thể từ khoảng năm 1821 đến năm 1825, là giai đoạn chuẩn bị, đến tháng 2 (âm lịch) năm 1826 thì cuộc nổi dậy mới chính thức bùng nổ.

Nguyên do bị bắt

Theo Nguyễn Phan Quang, mặc dù có một số tài liệu viết rằng Phan Bá Vành đã bị bắt (hoặc bị giết) trong đêm nghinh hôn (hoặc trong đêm về ăn giỗ nhà vợ), nhưng ở nhiều tài liệu khác (tuy có ít nhiều dị biệt) đều cho rằng ông đã bị thương rồi bị bắt trong trận đánh cuối cùng: Sách Quốc triều sử toát yếu (đã dẫn trên) và Minh đô sử đều chép Phan Bá Vành mở đường máu thoát thân nhưng bị Phan Bá Hùng dàn quân ra chặn bắt. Trong Trà Lũ xã chí: :Thế tiến thoái đều khốn quẫn, Phan Bá Vành bèn cho đào sông dài hơn 100 trượng từ sông Cát đến sông Ngô Đồng. Nhưng vì nước cạn, thuyền không đi được, đạn đại bác (của quân triều) dội xuống như mưa. Ba Vành bị thương, bị chánh tổng Hoàng Nha là Lê Tuấn do thám bắt sống.

*Trong Trần chi tộc phả: :(Ba) Vành thu tàn quân đào sông dài ước khoảng 2.000 thước (800m) gọi là sông Xẻ, (cống gọi là cống Vành), một đêm đào sông, đem thuyền ra biển. Rạng đông, quan quân đuổi theo, hai bên bờ súng ra, quân Vành chết gần hết. (Ba) Vành một mình trốn thoát vào bãi lau sậy, hai ngày sau khát nước quá, đi tìm nước uống, bị tổng trưởng Hoành Nha là Lê Điển tri sát bắt được giải về.

*Trong Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực: :''(Ba) Vành mở cống cho thuyền bơi ra; nước cạn thuyền không đi được, quan quân đánh khép lại, bắt được tướng ngụy là Đán, Liễn, Khương, Thự...hơn 10 người, chém vài trăm đầu, giặc nhảy xuống nước chết vài ngàn tên. Vành bị đạn bắn vào đùi, bị bắt...Vành cùng Đán, Liễn bị đóng cũi giải đi Bắc thành. Vành tự cắn lưỡi chết.

*Trong Truyện Phan Bá Vành của Văn Lang: :''...Bị thương nặng, Phan Bá Vành cho gọi cai tổng Lê Tuấn là con một nghĩa quân thân tín ở Hoàng Nha, cõng ông về nhà cứu chữa. Biết không thể sống, ông sai Cai tổng Tuấn khiêng ông đi nộp quan để lấy thưởng. Đến địa phận xã Đồng Phú, huyện Thượng Nguyên (thuộc Mỹ Lộc, Nam Định ngày nay). Ông đã tự móc rốn, moi ruột tự tử (1827). Sau đó, nhà Nguyễn đã phanh thây Bá Vành thành bốn mảnh, còn đầu thì chặt đem bêu khắp ở các nơi thuộc địa bàn cuộc nổi dậy do ông lãnh đạo .

Nhận định sơ bộ

Trước đây, Trần Trọng Kim gọi cuộc nổi dậy Phan Bá Vành là một trong số "những giặc có thanh thế to mà quan quân phải đánh dẹp khó nhọc" (tr. 202). Phạm Văn Sơn, thì liệt nó vào "những vụ phiến động ở Bắc Kỳ, có mục đích lật đổ chế độ" (tr. 344).

Sau này, một số nhà nghiên cứu sử người Việt, trong đó có Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh...đã gọi đây là một trong các "cuộc khởi nghĩa tiêu biểu đã làm rung chuyển cả một vùng đồng bằng ven biển Bắc Bộ" (Việt Nam thế kỷ 19, tr. 133), là "cuộc khởi nghĩa nông dân điển hình nhất của đầu thế kỷ 19, dưới thời nhà Nguyễn" (Đại cương lịch sử Việt Nam, tập 1, tr.459)...

Lời bàn

Lời bàn chỉ để tham khảo:

Một số tác giả, trong đó có nhóm Trương Hữu Quýnh, đều cho rằng trong lúc Trà Lũ đang bị bủa vây, thì thủ lĩnh Ba Vành đang trúng kế mỹ nhân nên trì hoãn việc chuẩn bị đối phó. Vì vậy, khi quân triều từ các nơi kéo về vây kín, và đồng loạt tấn công thì mọi cố gắng chống đỡ của quân nổi dậy kể như vô hiệu. Tuy nhiên, theo Nguyễn Phan Quang, thì "kế ấy hẳn có ít nhiều tác dụng", nhưng không thể là nguyên nhân "quyết định" khiến đại cuộc thất bại. Ông viết: :''Trà Lũ, tuy có nhiều ưu thế về mặt địa hình, nhưng một khi quân nhà Nguyễn chốt chặt hết các lối (nhất là lối thoát ra biển), thì mấy ngàn quân nổi dậy bị cô lập giữa một vùng đầm lầy. :''Ở góc độ nào đó mà xét, việc Phan Bá Vành chuyển toàn bộ lực lượng về Trà Lũ, là một thất sách, thậm chí là một sự mạo hiểm và bế tắt...Kế mỹ nhân của quan tướng nhà Nguyễn, chẳng qua chỉ làm cho đại cuộc này kết thúc nhanh hơn mà thôi. :Được vậy, quan quân nhà Nguyễn đã phải chịu nhiều lao nhọc và tổn thất nặng nề....

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành** (bắt đầu: 1821?, kết thúc: 1827) là cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài nhất, phạm vi ảnh hưởng rộng nhất do Phan Bá Vành lãnh đạo nhằm chống
**Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương** (khởi phát: 1832, kết thúc: 1837 hoặc 1838) là cuộc nổi dậy của đa số người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của con
Trong lịch sử Việt Nam, ngoài những triều đại hợp pháp ổn định về nhiều mặt từ kinh tế, chính trị đến văn hóa xã hội và tồn lại lâu dài còn có những chính
thumb|Attack of [[Krakusi on Russians in Proszowice during the 1846 uprising. Juliusz Kossak painting.]] thumb|right|"Rzeź galicyjska" ([[thảm sát Galician) bởi Jan Lewicki]] **Cuộc nổi dậy** **Kraków** diễn ra vào tháng 2, năm 1846 là một
**Phan Bá Vành (Vinh)** (潘伯鑅, 10 tháng 9 năm 1790 – 1827) là một lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân ở Sơn Nam Hạ thời vua Minh Mạng, nhà Nguyễn. ## Tiểu sử Phan
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Chiến tranh Ba Mươi Năm** bắt đầu từ năm 1618, kết thúc năm 1648, chủ yếu diễn ra tại vùng nay là nước Đức và bao gồm hầu hết các cường quốc của châu Âu
**Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc** là chiến dịch giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước cửa ngõ Sài Gòn trong Cuộc tổng tấn công
Phục bích (), còn được phiên âm là phục tích hay phục tịch, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế truất hay
**Nội chiến Tây Ban Nha** () là một cuộc nội chiến giữa phe Cộng hòa và phe Quốc dân diễn ra ở Tây Ban Nha từ năm 1936 tới năm 1939. Phe Cộng hòa là
**Phần Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Phần Lan**, là một quốc gia thuộc khu vực Bắc Âu. Phần Lan giáp với Thụy Điển về phía Tây, Nga về phía Đông, Na Uy về phía
**Phan** (chữ Hán: 潘) là một họ tại Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên (Hangul: 반, Hanja: 潘, phiên âm theo Romaja quốc ngữ là **Ban**). Phan là họ phổ biến thứ 6 với
Sau cuộc bạo loạn tại Điện Capitol Hoa Kỳ 2021, các cuộc điều tra tội phạm, lo ngại về sức khỏe cộng đồng và các tác động chính trị khác nhau đã xảy ra, đáng
**Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan**, là một quốc gia có chủ quyền ở Trung Âu, tiếp giáp với Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện
**Lịch sử Ba Lan giữa hai cuộc Thế chiến** bao gồm giai đoạn từ tái lập quốc gia độc lập Ba Lan năm 1918, tới Cuộc xâm lược Ba Lan từ phía tây bởi Đức
**Cuộc vây hãm Dubrovnik** (, Опсада Дубровника) là một cuộc giao tranh quân sự giữa Quân đội Nhân dân Nam Tư (tiếng Serbia-Croatia: _Jugoslovenska Narodna Armija_, JNA) với lực lượng người Croat bảo vệ thành
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Dãy Cascade** (tiếng Anh: **' hay **' (ở Canada)) là một dãy núi kéo dài nằm đối diện với bờ biển thuộc khu vực phía tây của Bắc Mỹ, giữa tiểu bang California, Oregon, Washington
Nội chiến Hoa Kỳ diễn ra tại nhiều nơi trong hai vùng chiến lược chính, Mặt trận miền Tây và Mặt trận miền Đông. Ngoài ra còn có mặt trận vùng sông Mississippi, bờ biển
**Loạn Hoàng Sào** () là cuộc khởi nghĩa nông dân do Hoàng Sào làm thủ lĩnh lãnh đạo, diễn ra vào cuối triều đại Nhà Đường đời Hoàng Đế Đường Hy Tông. Trong số các
**Bà Rịa – Vũng Tàu** (viết tắt **BRVT**) là một tỉnh cũ ven biển thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Ngày 12 tháng 6 năm 2025, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 202/2025/QH15
**Trận Vành đai Pusan** xảy ra vào tháng 8 và tháng 9 năm 1950 giữa các lực lượng Liên Hợp Quốc kết hợp với các lực lượng Đại Hàn Dân quốc (còn gọi Hàn Quốc
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
Đại tướng **John Churchill, Công tước thứ 1 xứ Marlborough, Thân vương thứ 1 xứ Mindelheim, Bá tước thứ 1 xứ Nellenburg, Thân vương của Đế quốc La Mã Thần thánh**, KG PC (26 tháng
**Trận Vukovar** là một cuộc vây hãm kéo dài 87 ngày từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1991 ở thành phố Vukovar, miền đông Croatia, áp đặt bởi Quân đội nhân dân Nam Tư
**Argentina** (phiên âm tiếng Việt: _Ác-hen-ti-na_, ), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Argentina** (tiếng Tây Ban Nha: República de Argentina) là quốc gia lớn thứ hai ở lục địa Nam Mỹ theo diện
**Tây Berlin** là cái tên được đặt cho nửa phía tây của Berlin nằm dưới sự kiểm soát chính thức của liên quân Mỹ, Anh, Pháp và không chính thức của nhà nước Cộng hòa
**_Con chim vành khuyên_** (tiếng Anh: _The passerine bird_; tiếng Nga: _Синичка_) là một bộ phim điện ảnh cách mạng năm 1962 do Xưởng phim truyện Hà Nội sản xuất, Nguyễn Văn Thông viết kịch
**Chiến tranh Triều Tiên** là cuộc chiến xảy ra trên bán đảo Triều Tiên giữa Bắc Triều Tiên (với sự hỗ trợ của Trung Quốc, Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa) và
**Philippines** (, tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _"Pilipinas"_ hoặc _"Filipinas"_, Hán-Việt: _"Phi Luật Tân"_)_,_ tên gọi chính thức là **Cộng hòa Philippines** (tiếng Tagalog/tiếng Filipino: _Republika ng Pilipinas_; tiếng Anh: _Republic of the Philippines_) là một đảo
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Lev Davidovich Trotsky** hay **Leon Trotsky** (họ thật là **Bronstein**; – 21 tháng 8 năm 1940) là nhà cách mạng, nhà chính trị và lý luận chính trị người Do Thái gốc Nga – Ukraina,
**_Avengers: Cuộc chiến vô cực_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Avengers: Infinity War_**) là một bộ phim điện ảnh đề tài siêu anh hùng của Mỹ năm 2018 dựa trên các nhân vật của Marvel Comics.
**Pakistan** (, phiên âm: "Pa-ki-xtan"), tên chính thức là **Cộng hòa Hồi giáo Pakistan**, là một quốc gia ở Nam Á. Pakistan có bờ biển dài 1,046 km (650 mi) dọc theo Biển Ả Rập và Vịnh
**Cuba** (), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Cuba** (tiếng Tây Ban Nha: _República de Cuba_) là một quốc đảo có chủ quyền nằm ở vùng Caribe. Cuba bao gồm đảo Cuba (hòn đảo
**Croatia** (: , phiên âm tiếng Việt hay dùng là "C'roát-chi-a" hoặc "Crô-a-ti-a"), tên chính thức **Cộng hòa Croatia** (tiếng Croatia: _Republika Hrvatska_ ) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và
**Chiến dịch Huế - Đà Nẵng** là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam
**Frankfurt** là một thành bang lớn của Đế chế La Mã Thần thánh, là nơi diễn ra các cuộc bầu cử đế quốc từ năm 885 và là thành phố tổ chức Lễ đăng quang
**Colombia** (), tên chính thức là **Cộng hòa Colombia** (; ) là một quốc gia tại Nam Mỹ. Colombia giáp Venezuela và Brasil về phía đông; giáp Ecuador và Peru về phía nam; giáp Đại
**Tây Bengal** (, , nghĩa là "tây bộ Bengal") là một bang tại khu vực đông bộ của Ấn Độ. Đây là bang đông dân thứ tư toàn quốc, với trên 91 triệu dân theo
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
nhỏ|300x300px| [[Eris (hành tinh lùn)|Eris, vật thể đĩa phân tán lớn nhất được biết đến (ở giữa) và vệ tinh Dysnomia của nó (bên trái của vật thể) ]] **Đĩa phân tán** (hoặc **đĩa rải
"**Tỳ bà hành**" () là một bài thơ dài 616 chữ thuộc thể loại thất ngôn trường thiên của Bạch Cư Dị, một trong những thi nhân nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc
**Đan Mạch** (tiếng Đan Mạch: _Danmark_) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các
Khoảng một triệu người dân miền Bắc (khoảng 800 ngàn trong đó là người Công giáo) di cư đến miền Nam Việt Nam trong những năm 1954–1955 theo những chuyến tàu do Pháp và Mỹ
**Tchad**, quốc hiệu là **Cộng hòa Tchad**, là một quốc gia nội lục tại Trung Phi. Tchad giáp với Libya ở phía bắc, với Sudan ở phía đông, với Cộng hòa Trung Phi ở phía
**Papua New Guinea** (; Hiri Motu: _Papua Niu Gini_, phiên âm tiếng Việt: _Pa-pu-a Niu Ghi-nê_), tên đầy đủ là **Nhà nước Độc lập Papua New Guinea** là một quốc gia quần đảo ở châu
**Puerto Rico** (phiên âm tiếng Việt: Pu-éc-tô Ri-cô, ), tên gọi chính thức là **Thịnh vượng chung Puerto Rico** (, ) là một vùng quốc hải thuộc chủ quyền của Hoa Kỳ. Puerto Rico nằm
**Phan Văn Anh Vũ** (sinh ngày 2 tháng 11 năm 1975), biệt danh **Vũ nhôm**, là một doanh nhân Việt Nam. Ông sống tại quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, được xem là _trùm_