✨Công nữ Ngọc Vạn

Công nữ Ngọc Vạn

Công nữ Ngọc Vạn (公女玉萬), tương truyền, có họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Ngọc Vạn (阮福玉萬) hoặc Nguyễn Phúc Thị Ngọc Vạn, gọi tắt là Ngọc Vạn, sinh khoảng năm 1605, mất sau năm 1658 hoặc Nguyễn Phúc Thị Ngọc Vạn. Họ có với nhau các con là:

  • Công chúa (Brhat Pada Amachas) Nea Puspavathi Kshatriyi [Anga Nha]. Được hứa gả cho anh trai cùng cha khác mẹ là Chan Ponhéa Sô (Thommo Reachea II) nhưng lại bị gả (làm thiếp) cho chú ruột là Outey vào năm 1626. Ngoại tình với Chan Ponhéa Sô và cả hai bị Outey giết vào năm 1631.
  • Công chúa (Brhat Anga) Devi Panya. Được gả cho Padumaraja I (Ang Non - con trai của Outey, tức em họ của Devi Panya). Bị Ramathipadi I (anh trai cùng cha khác mẹ với Devi Panya) sát hại năm 1642 cùng với chồng, cha chồng. Bà và Padumaraja I có một người con trai là Padumaraja II (sau làm vua hiệu là Chey Chettha III).

Sự tranh chấp quyền lực ở Chân Lạp

Sau khi Chey Chetta II mất, nội bộ Chân Lạp liền xảy ra việc tranh quyền giữa chú là Prea Outey (em ruột của Chey Chetta II) người giữ chức Giám quốc (ab joréach hoặc Udayaraja) và người cháu là vua Chan Ponhéa Sô (ở ngôi: 1628-1630) (con của Chey Chetta II).

Trước đây, lúc vua Chei Chetta II còn sống đã định cưới Công chúa Ang Vodey cho Hoàng tử Chan Ponhéa Sô. Nhưng chẳng may, khi nhà vua vừa mất thì Préa Outey, tức là chú ruột của Chan Ponhéa Sô, lại cưới nàng Công chúa này trong khi Hoàng tử còn đang tu (theo truyền thống) trong chùa.

Sau khi rời tu viện, Chan Ponhéa Sô lên ngôi và trong một buổi tiếp tân, nhà vua trẻ gặp lại nàng Ang Vodey xinh đẹp. Sau đó, cả hai đã mượn cớ đi săn bắn để gặp gỡ, nhưng không ngờ Préa Outey biết được liền đuổi theo và giết chết cả hai vào năm 1630. Chan Ponhéa Sô làm vua mới được hai năm.

Người con thứ hai của Chey Chetta II lên ngôi với vương hiệu là Ponhea Nu (ở ngôi: 1630–1640). Năm 1640, Ponhea Nu đột ngột băng hà, Phụ chính Préah Outey liền đưa con mình lên ngôi, tức quốc vương Ang Non I. Nhưng Ang Non I cũng chỉ làm vua được hai năm (ở ngôi: 1640-1642) thì bị người con thứ ba của Chey Chetta II là Chau Ponhea Chan (Nặc Ông Chân - mẹ ông là người Lào) dựa vào một số người Chăm và người Mã Lai, giết chết cả chú Préah Outey và em họ Ang Non I để giành lại ngôi vua.

Nặc Ong Chân lên ngôi (ở ngôi: 1642-1659), cưới một Công chúa người Mã Lai theo đạo Hồi (Islam) làm Vương hậu và nhà vua cũng bỏ quốc giáo (Phật giáo Tiểu thừa) để theo đạo của vợ. Điều này cùng với việc cho nhóm người thiểu số Mã Lai và Chăm được nhiều ưu đãi, đã gây bất bình trong giới hoàng tộc và dân chúng Chân Lạp (dân tộc Khmer). Nặc Ông Chân còn xưng là Ramathipadi I, sau đó đổi thành Sultan Ibrahim.

Năm 1658, con của Préah Outey là Ang Sur (So) và Ang Tan dấy binh chống lại Nặc Ông Chân nhưng thất bại... Nghe lời khuyên của Thái hậu Ngọc Vạn, Ang So và Ang Tan cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần liền sai Phó tướng dinh Trấn Biên (Phú Yên) là Nguyễn Phước Yến dẫn 3000 quân đến thành Hưng Phước (bấy giờ là Mỗi Xuy, tức Bà Rịa), phá được thành rồi tiến vào bắt Nặc Ông Chân bỏ vào cũi đem về giam ở Quảng Bình.

Năm sau (1659), Nặc Ông Chân chết chúa Nguyễn phong cho Ang So làm vua Chân Lạp, hiệu là Barom Reachea VIII (ở ngôi: 1660-1672). Từ đó, lưu dân Việt đến Gia Định, Mỗi Xuy (Bà Rịa), Biên Hòa ngày càng đông để khai khẩn đất đai...

Năm 1672, vua Barom Reachea VIII bị một người vừa là rể vừa là cháu là Chey Chetta III giết chết, em là Ang Tan (Nặc Ông Tân) chạy sang cầu cứu chúa Nguyễn. Nhưng ngay sau đó Chey Chetta III cũng bị người của Nặc Ông Chân sát hại.

Ang Chei (Nặc Ông Đài, ở ngôi: 1673-1674) con trai đầu của vua Barom Reachea VIII lên ngôi. Ông Đài cho đắp thành lũy ở địa đầu Mỗi Xuy, nhờ Xiêm cứu viện để chống lại chúa Nguyễn.

Bị quân Xiêm đánh đuổi, Ang Tan cùng cháu là Ang Nan (Nặc Ông Nộn) chạy sang Sài Gòn kêu cứu chúa Nguyễn. Năm 1674, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai Cai cơ Nguyễn Dương Lâm và Tham mưu Nguyễn Đình Phái chia quân làm hai cánh cùng tiến lên Chân Lạp. Nặc Ông Đài bỏ thành Nam Vang chạy vào rừng, để rồi bị thuộc hạ đâm chết.

Sau khi Nặc Ông Đài mất, người em là Nặc Ông Thu (Ang Sor) ra hàng. Để giải quyết tình trạng "nồi da xáo thịt" dai dẳng này, chúa Nguyễn cho Nặc Ông Thu làm Chính vương, đóng đô ở Phnom pênh (Nam Vang), cho Nặc Ông Nộn làm Đệ nhị vương, đóng đô ở khu vực gò Cây Mai (thuộc Sài Côn, nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh)...Tuy nhiên, hai phe vẫn không từ bỏ ý định loại trừ nhau.

Sau hơn 50 năm luôn phải tìm cách tồn tại trong chốn vàng son nhưng đẫm máu ấy, theo lời kể, thì Thái hậu Ngọc Vạn đã theo Nặc Ông Nộn về Sài Côn, rồi lui về sống ở Bà Rịa. Nơi đây, bà cho lập chùa Gia Lào (núi Chứa Chan, Đồng Nai), rồi ẩn tu cho đến hết đời.

Khẳng định Ngọc Vạn chính là vợ vua Chey Chetta II

Trước đây, vị công nữ được gả cho Chey Chetta II vẫn còn là một vấn đề chưa thống nhất. Vì ở mục Công chúa trong Đại Nam Liệt Truyện Tiền Biên chỉ ghi như thế này: :Chúa Sãi có bốn người con gái là: 1/ Công chúa Ngọc Liên, lấy Trấn biên doanh trấn thủ phó tướng Nguyễn Phúc Vĩnh. Phúc Vĩnh là con trưởng Mạc Cảnh Huống. 2/ Công chúa Ngọc Vạn, không có truyện. 3/ Công chúa Ngọc Khoa, không có truyện. 4/ Công chúa Ngọc Đĩnh lấy phó tướng Nguyễu Cửu Kiều. Năm Giáp Tỵ (1684, Lê Chính Hòa năm thứ 5), mùa đông, Ngọc Đĩnh Mất.

Tương tự, trong quyển Généalogie des Nguyễn avant Gia Long (Phổ hệ nhà Nguyễn trước Gia Long) của Tôn Thất Hân và Bùi Thanh Vân (Bulletin des Amis de vieux Huế, 1920) cũng chỉ ghi là: :Ngọc Khoa con gái thứ của Sãi vương, không để lại dấu tích. Ngọc Vạn con gái thứ của Sãi vương, không có dấu tích gì về Ngọc Vạn.

Bàn về việc "không có truyện" trên, trong cuốn Việt sử xứ Đàng Trong của GS. Phan Khoang có đoạn: :Việc này, sử ta đều không chép, có lẽ các sử thần nhà Nguyễn cho là việc không đẹp, nên giấu đi chăng? Nhưng nếu họ quan điểm như vậy thì không đúng. Hôn nhân chính trị, nhiều nước đã dùng, còn ở nước ta thì chính sách đã đem lại ích lợi quan trọng. Đời nhà Lý thường đem công chúa gả cho các tù trưởng các bộ lạc thượng du Bắc Việt, các bộ lạc ấy là những giống dân rất khó kiếm chế. Nhờ đó mà các vùng ấy được yên ổn, dân thượng không xuống cướp phá dân ta, triều đình thu được thuế má, cống phẩm; đất đai ấy, nhân dân ấy lại là một rào dậu kiên cố ở biên giới Hoa-Việt để bảo vệ cho miền Trung Châu và kinh đô Thăng Long. Đến đời Trần, chính đôi má hồng của ả Huyền Trân đã cho chúng ta hai châu Ô, Lý để làm bàn đạp mà tiến vào Bình Thuận. :Sử ta không chép, nhưng theo các sách sử Cao Miên do các nhà học giả Pháp biên soạn, mà họ lấy sử liệu Cao Miên để biên soạn thì quả Chey Chetta II năm 1620 có cưới một công nữ con chúa Nguyễn. Giáo sĩ Borri, ở Đàng Trong trong thời gian ấy cũng có nói đến cuộc hôn nhân này. Xem "Đại Nam liệt truyện Tiền biên" (mục Công Chúa), thấy chúa Hi Tông (tức chúa Sãi) có bốn con gái, hai nàng Ngọc Liên, Ngọc Đãng thì có chép rõ sự tích chồng con, còn hai nàng Ngọc Vạn, Ngọc Khoa thì chép là "khuyết truyện", nghĩa là không có tiểu truyện, tức là không biết chồng con như thế nào. Vậy người gả cho vua Chey Chetta II phải là Ngọc Vạn hoặc Ngọc Khoa.

Sách Nguyễn Phúc tộc Thế phả xuất bản tại Huế (1995) khẳng định rằng: Năm Canh Thân (1620), Nguyễn Phúc Ngọc Vạn (con gái thứ hai của chúa Sãi) được gả cho vua Chân Lạp là Chey Chetta II. Về sau nể tình bà, vua Chân Lạp cho người Việt lập một dinh điền tại Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay). Năm Tân Mùi (1631), Nguyễn Phúc Ngọc Khoa (con gái thứ ba của chúa Sãi) được gả cho vua Chiêm Thành là PôRôMê. Nhờ có cuộc hôn phối nầy mà tình giao hảo giữa hai nước Việt-Chiêm được tốt đẹp.

Người Việt ghi nhận công lao

Theo Nguyễn Lệ Hậu, thì: việc giữ gìn biên cương và mở mang bờ cõi luôn là ước vọng lớn lao của hầu hết các đấng quân vương, và trong suốt thời gian trị vì của mình các bậc đế vương đã không ngừng khai thác bằng hầu hết những khả năng và biện pháp vốn có. Ở đây, vấn đề hôn nhân nhằm mục đích chính trị đã đóng một vai trò không nhỏ trong việc mở mang bờ cõi, nhất là trong công cuộc Nam tiến. Trong đó các cành vàng lá ngọc đã đóng một vai trò nhất định, nước mắt má hồng đã tô thắm cho từng dãi đất biên cương.

Nhận xét riêng về vai trò của Ngọc Vạn, TS. Trần Thuận viết: :''Cuộc hôn nhân này mặc dầu không được sử nhà Nguyễn ghi chép vì một lý do nào đó. Song, xét đến cùng thì đây là một cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị có tầm quan trọng đặc biệt đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, nó đáp ứng nhu cầu cho cả hai phía. Chân Lạp cần có sự "bảo hộ" của chúa Nguyễn để tránh khỏi sự tấn công tiêu diệt của vương quốc Xiêm. Chúa Nguyễn cần có chỗ đứng ở phía Nam, đẩy mạnh sự khai phá của lưu dân Việt trên mảnh đất khô cằn và thấp trũng mà từ lâu người Chân Lạp vẫn bỏ hoang, đồng thời tạo nên sự ổn định mặt phía Nam để rảnh tay lo đương đầu với thế lực Trịnh ở phía Bắc...Ngọc Vạn, rõ ràng là một chiếc cầu nối trong quan hệ Việt–Miên ở thế kỷ 17...Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, từng có những người phụ nữ làm nên đại cuộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu,...góp phần giành giữ nền độc lập cho Tổ quốc, và cũng từng có những người phụ nữ lặng lẽ hy sinh để cha anh làm nên nghiệp lớn như Huyền Trân, Ngọc Vạn, Ngọc Khoa...Chính họ là những con người làm nên lịch sử. Đáng kính thay!

Cảm phục Ngọc Vạn và Ngọc Khoa, thi sĩ Trần Tuấn Khải (1895-1983), đã có thơ rằng:

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công nữ Ngọc Vạn** (公女玉萬), tương truyền, có họ tên đầy đủ là **Nguyễn Phúc Ngọc Vạn** (阮福玉萬) hoặc Nguyễn Phúc Thị Ngọc Vạn, gọi tắt là **Ngọc Vạn**, sinh khoảng năm 1605, mất sau
Công nữ **Nguyễn Phúc Ngọc Khoa** (chữ Hán: 公女阮福玉誇), không rõ sinh mất năm nào, là con gái thứ ba của chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên. Theo _Nguyễn Phước tộc Thế phả_, bà được gả
nhỏ|327x327px|Phụ nữ Việt Nam thời kỳ [[Chiến tranh Việt Nam (miền Bắc, 1954-1959)|chiến tranh (theo học ở Leipzig, Đông Đức).]] **Phụ nữ Việt Nam** là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển
**Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam** (tiếng Anh: _Vietnam Women's Union_, viết tắt: **_VWU_**) là một tổ chức chính trị, xã hội của phụ nữ Việt Nam, mục đích hoạt động vì sự bình
🌸 TRÀ THẢO MỘC TRÀ NGỌC NỮ – HTX VẠN AN 🌸 Trà Ngọc Nữ là sự kết hợp độc đáo giữa các dược liệu quý dành riêng cho phái đẹp, được HTX Vạn An
**Tần Lương Ngọc** (chữ Hán: 秦良玉, 1574 -1648), tự **Trinh Tố**, người Trung Châu, Tứ Xuyên, là nữ danh tướng kháng Thanh cuối đời nhà Minh. Bà là một phụ nữ thuộc dân tộc Hán,
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
****Chey** Chettha II** hay **Chay Chettha II** (1573 hoặc 1577 -1627) là vua Chân Lạp giai đoạn 1618-1627. Tên húy là Ponhea Nhom (tiếng Khmer: ជ័យជេដ្ឋាទី២). ## Tiểu sử Ponhea Nhom là con trai cả
Mặt tiền tòa nhà hành chính của [[Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất tại Việt Nam Cộng hòa, hình chụp năm 1961.]] **Nền giáo dục Việt Nam Cộng
**Lam Ngọc** (藍玉,1340 - 1393) là một danh tướng đầu thời nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Hồng Vũ năm thứ 12 (1379) thụ phong Vĩnh Xương hầu, năm thứ 21 (1388) thụ phong
phải|Bản đồ tổng quan các tuyến đường của cuộc Vạn lý Trường chinh**Vạn lý Trường chinh** (_wanli changzheng_), tên đầy đủ là **Nhị vạn ngũ thiên lý trường chinh**, là một cuộc rút lui quân
**Nguyễn** (đôi khi viết tắt Ng̃, ) là họ của người Á Đông, đồng thời là họ phổ biến nhất của người Việt tại Việt Nam. Theo nhiều cuộc điều tra, số người mang họ
**Nguyễn Phúc Nguyên** (chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8 năm 1563 – 19 tháng 11 năm 1635) hay **Nguyễn Hy Tông**, **Nguyễn Tuyên Tổ,** là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong
**Lương Hồng Ngọc** (梁紅玉 1102 - 1153) là nữ tướng dưới thời Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc, phu nhân của đại danh tướng Hàn Thế Trung. ## Nhân duyên trời định Sử sách
**Hiếu Văn hoàng hậu** (chữ Hán: 孝文皇后; 1578 - 1630), hay **Huy Cung Từ Thận Thuận phi** (徽恭慈慎順妃), nguyên là Chính thất của chúa Nguyễn Phúc Nguyên, thân mẫu của chúa Nguyễn Phúc Lan. Theo
**Vạn Thiến** (tên , tên tiếng Anh: **Regina Wan**, sinh ngày 14 tháng 5 năm 1982) là một nữ diễn viên và ca sĩ người Trung Quốc, tốt nghiệp Hệ Biểu diễn, Học viện Hý
**Vạn Bằng** (giản thể: 万鹏, phồn thể: 萬鵬, bính âm: _Wàn Péng_. Tên Tiếng Anh: Elaspe Wan) sinh ngày 20 tháng 8 năm 1996 là một nữ diễn viên, người mẫu và vũ công người
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Nam Kỳ** (chữ Hán: 南圻) là lãnh thổ cực Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam. Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra
**Nguyễn Linh Ngọc** (26 tháng 04 năm 1910 – 07 tháng 03 năm 1935) là nữ diễn viên phim câm của Trung Quốc. Cô là một trong những ngôi sao nổi tiếng nhất Trung Quốc
thumb|Đại Nam dưới thời [[Minh Mạng, bao gồm cả các trấn ở Lào. Vùng thuộc phần đất Campuchia ngày nay là lãnh thổ Trấn Tây Thành mà Nhà Nguyễn chiếm được trong 6 năm (1835
**Sông Cổ Chiên** là một phân lưu của sông Tiền, dài khoảng 82 km, làm thành ranh giới tự nhiên giữa các tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh với Bến Tre. ## Nguồn gốc tên gọi
**Phan Ngọc Nhi** (chữ Hán: 潘玉兒, ? - 501), là sủng phi của Phế Đế Đông Hôn hầu Tiêu Bảo Quyển triều Nam Tề trong lịch sử Trung Quốc. Tiêu Bảo Quyển chơi bời vô
thumb|Vương Chiêu Quân - biểu tượng "hòa thân" trong lịch sử Đông Á. **Hòa thân** (chữ Hán: 和親), cũng gọi **Hòa phiên** (和蕃), là một chính sách chính trị của các quân vương Đông Á,
**Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc** () là cơ quan kiểm tra kỷ luật trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc, giữ gìn kỷ luật, thúc đẩy
**Lưu Sở Ngọc** (chữ Hán: 劉楚玉; ? - 2 tháng 1, 466), còn được biết đến qua phong hiệu **Sơn Âm công chúa** (山陰公主), là một công chúa của triều đại Lưu Tống, con gái
**Lãnh đạo Đảng và Nhà nước** là thuật ngữ chính trị được sử dụng trên các phương tiện truyền thông về các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc.Tại
**Thiện Đức Nữ vương** (tiếng Hàn: 선덕여왕), tên thật là **Kim Đức Mạn**, là nữ vương của nước Tân La (một trong ba vương quốc thời kỳ Tam Quốc Triều Tiên gồm Cao Câu Ly,
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
**Bà Rịa** là thành phố tỉnh lỵ cũ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý nhỏ|Trung tâm hành chính tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu Thành phố
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII**, được gọi chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII** là đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt
**Tiền Giang** là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam. Tỉnh được hình thành từ năm 1976 trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Định Tường (vốn do chính
**Gia Định** (chữ Hán: 嘉定) là một địa danh cũ ở miền Nam Việt Nam. ## Lịch sử (sơ lược) phải|[[Chân Lạp-Phù Nam, vào năm 600.]] Đất **Gia Định xưa** thuộc nước Phù Nam (tồn
**Võ Trường Toản** chưa rõ năm sinh - mất ngày 26 tháng 9 năm 1792; nhằm ngày 9 tháng 6 năm Nhâm Tý), hiệu **Sùng Đức** do chúa Nguyễn Phúc Ánh phong tặng (sau đổi
**_Công ty Quái vật_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Monsters, Inc._** hay đầy đủ là **_Monsters, Incorporated_**) là một bộ phim hoạt hình hài hước Mỹ của đạo diễn Pete Docter năm 2001, với nhà sản
**Phú Mỹ** là một thành phố cũ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Việt Nam. ## Tên gọi Thành phố được đặt tên theo thị trấn huyện lỵ huyện Tân Thành – thị trấn
**Cố Luân Hòa Tĩnh công chúa** (chữ Hán: 固伦和静公主; 10 tháng 8 năm 1756 - 9 tháng 2 năm 1775), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ 7 của Thanh Cao Tông Càn Long
**Giải bóng đá nữ Vô địch Quốc gia 2017** (Tên gọi chính thức là: **Giải bóng đá nữ Vô địch Quốc gia - Cúp Thái Sơn Bắc 2017**) là giải đấu bóng đá lần thứ
**Cố Luân Khác Tĩnh Công chúa** (, ; 4 tháng 7 năm 1679 - 4 tháng 4 năm 1735), Công chúa nhà Thanh, Hoàng nữ thứ sáu của Khang Hy Đế, xếp thứ tự là
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
**Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo** là một đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương ngày nay nằm ở miền Đông Nam Bộ. Đặc khu được
**Chey Chettha III** (1639-1673) là vua Chân Lạp giai đoạn tháng 10 năm 1672- tháng 5 năm 1673. Tên vương triều là Padumaraja II. ## Tiểu sử Chey Chettha III là con trai của vua
**Năm 1620** (số La Mã: MDCXX) là một năm nhuận bắt đầu từ ngày thứ tư trong lịch Gregory (hoặc một năm nhuận bắt đầu từ ngày thứ Bảy [1] của lịch Julius chậm hơn
**Tả Lương Ngọc** (chữ Hán: 左良玉, 1599 – 1645), tên tự là **Côn Sơn**, người Lâm Thanh, Sơn Đông, là tướng lĩnh cuối đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Phòng vệ Liêu Đông
**Tây Vương Mẫu** (chữ Hán: 西王母, còn gọi là **Vương Mẫu** (王母), **Dao Trì Kim Mẫu** (hay **Diêu Trì Kim Mẫu**, 瑤池金母), **Tây Vương Kim Mẫu** (西王金母), **Vương Mẫu Nương Nương** (王母娘娘) hoặc **Kim Mẫu
**Phra Bat Somdet Phra Phutthayotfa Chulalok Maharat** (, 20 tháng 3 năm 1736 – 7 tháng 9 năm 1809), tên khai sinh là **Thongduang** (), còn được gọi là **Rama I**, thụy hiệu đầy đủ
**Trịnh Kiểm** (chữ Hán: 鄭檢, 14 tháng 9, 1503 – 24 tháng 3, 1570), tên thụy **Thế Tổ Minh Khang Thái vương** (世祖明康太王), là nhà chính trị, quân sự có ảnh hưởng của Đại Việt
**Quan hệ Việt-Chăm** xem như bắt đầu từ năm 968, khi Đinh Tiên Hoàng lập ra nước Đại Cồ Việt, với tư cách là quốc gia độc lập đến năm 1832, khi vua Minh Mạng
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Đặng Tiểu Bình** ( giản thể: 邓小平; phồn thể: 鄧小平; bính âm: _Dèng Xiǎopíng_; 22 tháng 8 năm 1904 - 19 tháng 2 năm 1997), tên khai sinh là **Đặng Tiên Thánh** (邓先聖) là một