nhỏ|Chân dung Chopin do [[Ambroży Mieroszewski vẽ năm 1829.]]
Concerto số 1 cung Mi thứ, Op. 11 là bản nhạc cho dương cầm hòa tấu với dàn nhạc do Frédéric Chopin biên soạn năm 1830, khi mới hai mươi tuổi. Tác phẩm đã được biểu diễn lần đầu tiên ngày 11 tháng 10 ngay năm đó, tại Teatr Narodowy Warsaw (Nhà hát quốc gia Vacxava) ở Ba Lan, do chính tác giả độc tấu dương cầm.
Trong 244 nhạc phẩm của Chopin đã được thống kê, nhạc phẩm này rất nổi tiếng vì là một trong những kiệt tác của ông hồi còn rất trẻ - đã được đánh giá là "Mozart thứ hai" - đồng thời còn được xem là nhạc phẩm "chia tay" của ông trước khi rời quê hương Ba Lan. Vẻ đẹp của nhạc phẩm này đã quyến rũ rất nhiều người yêu thích âm nhạc thuộc nhiều thế hệ, hầu hết các nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng Thế giới đều chọn tác phẩm này để biểu diễn.
Để biểu diễn nhạc phẩm này, ngoài dương cầm, cần dàn nhạc gồm:
- 2 sáo flute
- 2 kèn ô-boa
- 2 kèn cla-ri-nét
- 2 kèn pha-ngốt
- 4 kèn cor
- 2 kèn trôm-pét
- 1 kèn t'rôngbôn
- 1 trống định âm và
- bộ dây đầy đủ (nhiều nhất có thể tới 16 vĩ cầm I, 14 vĩ cầm II, 12 viola, 10 cello và 8 contrebasse).
Toàn bộ tác phẩm được biểu diễn trong khoảng từ 40 đến 45 phút (tùy nhạc trưởng, nghệ sĩ dương cầm và thời gian nghỉ giữa các chương).
Đặc trưng của tác phẩm là:
Lược sử
- Chopin (1810 - 1849) có tên khai sinh ở Ba Lan là Fryderyk Franciszek Szopen (đọc là "sô-pen"). Mặc dù sinh ra, được giáo dục và sống ở Ba Lan suốt nửa đầu cuộc đời, nhưng Chopin đã sống lưu vong ở Paris trong nửa đời còn lại và mất tại đây dưới tên bằng tiếng Pháp là Frédéric Chopin (đọc là "sô-panh"). Nhiều nhà viết lịch sử nhạc cổ điển cho rằng: Để học tập âm nhạc tốt hơn, cha mẹ Chopin đã tìm đủ tiền để gửi con đến Viên, thủ đô âm nhạc châu Âu thời đó, bắt đầu từ năm 1828, rồi trở lại Ba Lan vài lần. Sau đó, cuộc nổi dậy của người Ba Lan chống lại sự cai trị của Nga kết hợp với tình trạng rối loạn của nhiều nước châu Âu, khiến Chopin ở lại Viên gần một năm, rồi quyết định sang Pháp. Ngay sau khi đặt chân đến Paris, lúc bấy giờ là trung tâm của văn hóa châu Âu và giữa phong trào Lãng mạn mới nở rộ, Chopin nhận ra môi trường mà mình cần. Quan hệ với các nhà soạn nhạc trẻ như Franz Liszt (1811 - 1886), Hector Berlioz (1803 - 1869), Vincenzo Bellini (1801 - 1835) và Felix Mendelssohn (1809 - 1847) đã giúp Chopin nhận tra rằng mình có thể sống ổn định ở đó, với công việc giảng dạy, sáng tác và biểu diễn. Vì lí do này, Chopin đã coi buổi ra mắt bản hòa tấu piano concerto số 1 này của mình như là lời giã từ quê hương.
thumb|Nhà hát mà Chopin đã biểu diễn nhạc phẩm này vào ngày 11 tháng 10 năm 1830.
- Hầu hết sáng tác của Chopin là dành cho độc tấu dương cầm, không có giao hưởng hoặc hòa tấu nào khác, nhưng hai bản hòa tấu này đã chứng minh Chopin rất thạo và đã thành công trong việc sáng tác cho dàn nhạc. Cả hai bản hòa tấu này làm người nghe như thấy được đôi mắt mơ màng của một Chopin huyền thoại lãng mạn, một nhà thơ tinh tế và trữ tình, với tiếng vĩ cầm tắt dần và âm thanh bassoon nổi lên là “của một nhân vật lãng mạn, điềm tĩnh nhưng u buồn, như được ngắm một phong cảnh quen thuộc, gợi trong tâm hồn người nghe những ký ức đẹp đẽ vào một đêm xuân đẹp tràn đầy ánh trăng”. Khi sáng tác nó, Chopin có viết cho Tytus Woyciechowski: “... Có cái gì đó vô tình len lỏi qua mắt vào đầu tôi, làm tôi mê đắm nó, dù nó có thể sai.” Trước khi công diễn, Chopin đã thử hòa tấu với bộ dây
*Trong buổi ra mắt có khoảng 700 khán giả, bản hòa tấu do chính Chopin chơi dương cầm và Carlo Evasio Soliva chỉ huy. Ngoài ra, Chopin đã có một số trợ giúp của Ignacy Feliks Dobrzyński (1807-1867) và Tomasz Nidecki (1807-1852), trong việc dàn dựng hòa tấu.
Đánh giá
nhỏ|Ảnh một quảng cáo ở Đức bản Piano concerto 1 do chính Chopin biểu diễn.
Ban đầu, ý kiến về nhạc phẩm này sau khi ra mắt là khác nhau.
- Buổi ra mắt đã được kết thúc bởi "tiếng vỗ tay vang dạy". Hôm sau, ngày 12 tháng 10 năm 1830, Kurier Warszawski đã cho là “một thành công.... một sự trọn vẹn”.
- Bảy tuần sau, tại Paris, sau khi bùng nổ chính trị ở Ba Lan, Chopin chơi bản nhạc này lần đầu tiên tại Pháp ở Salle Pleyel (phòng hòa nhạc) và đã được đón nhận tốt. François-Joseph Fétis đã viết trên tờ La Revue musicale ngày hôm sau rằng "Có nhiều cảm xúc trong giai điệu, có sự kỳ ảo và nhiều độc đáo."
- Nhưng có nhà phê bình cho rằng sự hỗ trợ của dàn nhạc là không hấp dẫn, như James Huneker đã viết trong "Chopin: The Man and his Music" rằng “ ... Đây không phải là Chopin ở thời kỳ xuất sắc nhất của ông”. Tuy nhiên, nhiều người khác thấy rằng phần đệm của dàn nhạc được viết cẩn thận và phù hợp với âm thanh của dương cầm.
- Khoảng 6 năm sau buổi ra mắt, Robert Schumann nhận xét trên tờ Neue Zeitschrift für Musik rằng “Chopin đã đưa hồn của Beethoven vào phòng hòa nhạc” bằng tác phẩm này.
*Hiện nay, nhạc phẩm này vẫn được biểu diễn trên nhiều quốc gia. Những nghệ sĩ dương cầm xuất sắc nhất Thế giới như Arthur Rubinstein cũng như Martha Argerich và nhiều người khác đã chọn biểu diễn nhạc phẩm này. Trong Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin, nhạc phẩm này là một "đề thi" tự chọn cho vòng cuối (chung kết).
Cấu trúc
nhỏ|Trang đầu bản [[tổng phổ "Piano Concerto 1".]]
Piano Concerto 1 gồm ba chương, theo cấu trúc điển hình của các bản hòa tấu nhạc cụ ở thời kỳ đó:
Chương I. Allegro maestoso
(Tên chương "Allegro maestoso" cũng là chỉ dẫn cách chơi: "nhanh vừa, trang trọng").
Chương I thiết kế theo nhịp 3/4, tốc độ thiết kế 1/4 = 126, biểu diễn trong khoảng 20 phút, gồm ba chủ đề.
-
Khởi đầu tác phẩm là môtip 1 của chủ đề 1 (chủ đề chính) do bộ dây biểu hiện trong hai nhịp đầu, sau đó cường độ tăng lên (crescendo) và có thêm sự tham gia của tất cả nhạc cụ còn lại trừ dương cầm (xem bản tổng phổ ở hình bên). Giai điệu của môtip 1 kết hợp hoà âm tạo cảm giác không chỉ trang trọng mà còn có phần hùng vĩnh. Sau đó, môtip được nhắc lại nhưng ở cung bậc cao hơn (môtip 2), rồi nhỏ dần.
-
Môtip 1 được Chopin giao phó cho các vĩ cầm với giai điệu chung như sau (hình dưới đây).
page=188
-
Tiếp theo là chủ đề tương phản, nghe sáng hẳn lên vì thay đổi sang giọng Mi trưởng (E major), với biểu hiện của kèn với vai trò cụ thể: thứ nhất, chuyển đổi các chủ đề đã được trình chiếu một lần; thứ hai, đệm cho dương cầm với những hoà âm du dương, nhẹ nhàng. Chương này được mô tả là "unashamedly heart-on-your-sleeve stuff" (cái đáng xấu hổ trong tim trên tay áo của mình).
Chương III. Rondo – Vivace
trang=190|450x450px
Được thực hiện chậm rãi, với giai điệu như do dự và khúc mắc, với điệu Krakowiak, một điệu nhảy phổ biến lặp đi lặp lại nhiều lần trong Krakow.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Chân dung Chopin do [[Ambroży Mieroszewski vẽ năm 1829.]] **Concerto số 1 cung Mi thứ, Op. 11** là bản nhạc cho dương cầm hòa tấu với dàn nhạc do **Frédéric Chopin** biên soạn năm 1830,
nhỏ|337x337px|Chân dung Sô-pen năm 25 tuổi - Tranh của nữ nghệ sỹ [[Maria Wodzińska, 1835]] **Frédéric Chopin** đã sáng tác khoảng hơn 240 nhạc phẩm, trong đó có 65 nhạc phẩm được ông cho đánh
**Seong-Jin Cho** (; sinh ngày 28 tháng 5 năm 1994) là nghệ sĩ piano người Hàn Quốc. Anh trở nên nổi tiếng toàn thế giới khi dành ngôi quán quân tại Cuộc thi piano quốc
**Daniel Barenboim** (sinh năm 1942) là nghệ sĩ piano và nhạc trưởng người Israel. Ông là một trong những nhạc trưởng Israel xuất sắc nhất. ## Tiểu sử ### Thời niên thiếu Cậu bé 11
nhỏ| [[Maurice Ravel cùng Jacques Février chơi bản concerto cho piano dành cho tay trái ở Paris năm 1937]] **Concerto cho piano tay trái** cung Rê trưởng là một tác phẩm âm nhạc được sáng
**Frédéric François Chopin** (tên khai sinh là **Fryderyk Franciszek Szopen**; 1 tháng 3 năm 181017 tháng 10 năm 1849) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan sống trong thời
**Cuộc thi piano quốc tế Frédéric Chopin** (), gọi tắt là C**uộc thi Chopin**, là một trong những cuộc thi dương cầm cổ điển lâu đời nhất và uy tín nhất trên thế giới. Do
nhỏ|240x240px| _Một căn phòng trong căn hộ của Chopins trên [[Krakowskie Przedmieście|Krakowskie Przingmieście_, bởi Antoni Kolberg, 1832 ]] nhỏ|240x240px| Phòng khách của gia đình Chopin nhỏ|240x240px| Tấm bản trên căn hộ Chopin nhỏ|240x240px| Tấm gần
**Halina Czerny-Stefańska** ([ˈxaˈlina t͡ʂɛrnɨ stɛˈfaj᷉ska] 31 tháng 12 năm 19221 tháng 7 năm 2001) là một nghệ sĩ dương cầm người Ba Lan. Bà học dương cầm từ bố của mình, Stanisław Szwarcenberg-Czerny, cũng như
**Martha Maria Argerich** (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [ˈmarta arxeˈɾitʃ]; sinh ngày 5 tháng 6 năm 1941) là một nghệ sĩ dương cầm cổ điển người Argentina. Bà được coi là một trong những
**Olga Scheps** (tiếng Việt: /ôn-ga sep/, tiếng Mỹ: /ɒlgə sɛp/) là một nghệ sĩ dương cầm người Đức gốc Nga, hiện sống tại Cô-lô-nhơ thuộc Đức. Olga Scheps thường được nhắc đến vì là một
**Dmitri Dmitrievich Shostakovich** (, ; 9 tháng 8 năm 1975; phiên âm: **Sô-xta-cô-vích**) là một nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Nga thời Liên Xô. Ông được coi là một trong những
**Fa thứ** (viết tắt là **Fm**) là một cung thứ dựa trên nốt Fa (F), bao gồm các nốt: **Fa** (**F**), Sol, **La giáng** (**A**), Si giáng (B), **Đô** (**C**), Rê giáng (**D**), Mi giáng
**Aimi Kobayashi** (sinh 23 tháng 9 năm 1995) là nghệ sĩ dương cầm cổ điển người Nhật Bản. Cô sinh sống tại Ube, thuộc quận Yamaguchi cho đến tháng 2 năm 2007 và sau đó
**Evgeny Igorevich Kissin** (tiếng Nga: Евге́ний И́горевич Ки́син, Yevgeniy Igorevich Kisin; sinh ngày 10 tháng 10 năm 1971) là một nghệ sĩ dương cầm cổ điển Nga. Anh trở thành công dân Anh từ năm
**Johannes Brahms** (7 tháng 5 năm 1833 tại Hamburg – 3 tháng 4 năm 1897 tại Viên) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm và chỉ huy dàn nhạc người Đức. Các tác
**Igor Fyodorovich Stravinsky** (tiếng Nga: Игорь Фёдорович Стравинский _Igor Fjodorovič Stravinski_; 17 tháng 6 năm 1882 – 6 tháng 4 năm 1971) là một nhà soạn nhạc người Nga, sau này đổi quốc tịch sang
**Garrick Olaf Ohlsson** (sinh ngày 3 tháng 4 năm 1948) là một nghệ sĩ dương cầm cổ điển người Mỹ. Năm 1970, Ohlsson trở thành người đầu tiên và cho đến nay là người duy
**Sylvia Haydée Kersenbaum** (sinh 27 tháng 12 năm 1945) là một nghệ sĩ piano, nhà soạn nhạc và giáo viên người Argentina. Trong số những thứ khác, bà được công nhận đã thực hiện hoàn
**Nhạc acoustic** (tiếng Pháp đọc như "_a-cus-tich_", tiếng Anh: /əˈkuːstɪk/) là âm nhạc chỉ sử dụng hoặc chủ yếu sử dụng các nhạc cụ tạo ra âm thanh bằng âm học thay vì các nhạc
**Hélène Grimaud** (phiên âm từ tiếng Pháp: /**_Ê-len Gri-mô/_**, đọc theo tiếng Anh: /eɪʧéɛlèneɪ grɪmoʊ/) là một trong những nghệ sĩ dương cầm xuất sắc nhất qua mọi thời đại, người Pháp, chuyên biểu diễn
**Vladimir Samoylovych Horowitz** (tiếng Ukraina: Володимир Самійлович Горовиць, _Volodymyr Samiilovych Horovyts_; tiếng Nga: Владимир Самойлович Горовиц, _Vladimir Samojlovič Gorovits_; 1 tháng 10 năm 1903 – 5 tháng 11 năm 1989) là một nghệ sĩ piano
**Maurizio Pollini** (5 tháng 1 năm 1942 – 23 tháng 3 năm 2024) là một nghệ sĩ dương cầm và nhạc trưởng người Ý. Ông được biết đến bởi những buổi biểu diễn tác phẩm
**Rê trưởng** là một cung thể trưởng dựa trên nốt Rê (D), bao gồm các cao độ **Rê**, Mi (E), Fa thăng (F), Sol (G), La (A), Si (B), Đô thăng (C) và **Rê**. Hóa
**Gabriela Montero** (sinh ngày 10 tháng 5 năm 1970) là một nghệ sĩ dương cầm người Venezuela, đặc biệt được biết đến với sự ngẫu hứng thời gian thực của bà về các tác phẩm
**Đô trưởng** (ký hiệu là **C**), hay **Si thăng trưởng** (ký hiệu là **B**), là một cung thể trưởng dựa trên nốt Đô (C), tức Si thăng (B), bao gồm các nốt sau: **Đô** (**C**),
**Đặng Hữu Phúc** (sinh 4 tháng 6 năm 1953) là một nhà soạn nhạc, nhạc sĩ của Việt Nam. ## Tiểu sử Đặng Hữu Phúc sinh tại Phú Thọ, Việt Nam. Ông học nhạc tại
nhỏ|302x302px|Ảnh Liszt của Nadal, năm 1886, 4 tháng trước khi ông mất **Franz Liszt** (; ; 22 tháng 10 năm 1811 - 31 tháng 7 năm 1886) là một nghệ sĩ piano và nhà soạn
**Rê giáng trưởng** là một cung trưởng không mấy thông dụng với hóa biểu 5 dấu giáng. Thứ tự các nốt lần lượt là: Rê giáng, Fa, Sol giáng, La giáng, Si giáng và Đô.
**Si giáng thứ** là một âm giai thứ dựa trên nốt B♭, bao gồm các cao độ B ♭, C, D ♭, E ♭, F, G ♭ và A ♭. Hóa biểu chính của nó
phải|nhỏ|Carl Maria von Weber **Carl Maria Fridrich Ernst von Weber** (18-19 tháng 11 năm 1786 - 4-5 tháng 1826) là một nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ dương cầm, nghệ sĩ ghi ta và
**Francis Jean Marcel Poulenc** (1899-1963) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano người Pháp. Ông là thành viên của nhóm Les Six. Âm nhạc của ông được biết với phong cách chịu ảnh hưởng bởi
**Âm nhạc Ba Lan** bao gồm các khía cạnh khác nhau của âm nhạc đương đại và âm nhạc dân gian có nguồn gốc từ Ba Lan. Các nghệ sĩ đến từ Ba Lan bao
**Johann Sebastian Bach** (; 21 tháng 3 năm 1685 - 28 tháng 7 năm 1750) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ organ, vĩ cầm, đại hồ cầm, và đàn harpsichord người Đức thuộc thời
**Mi thứ** (viết tắt là **Em**) là một cung thứ dựa trên nốt Mi, bao gồm các nốt nhạc **Mi** (**E**), Fa thăng (F), **Sol** (**G**), La (A), **Si** (**B**), Đô (C), Rê (D) và
nhỏ|Op.2 của [[Joseph Haydn - Ảnh chụp trang tổng phổ đầu của bản nhạc cũ "Sonare opus 2 n°1" của ông tại một cuộc đấu giá nghệ thuật ở Bỉ.]] **Opus** (từ nguyên gốc tiếng
**Bích Trà**, thường được biết với tên là **Trà Nguyễn** (sinh năm 1973) là một nghệ sĩ piano người Việt Nam sinh sống và làm việc tại Hồng Kông. Bích Trà sinh ra trong một
**_Nấc thang lên thiên đường_** (chữ Hán: 天國의階段; Hangul: 천국의 계단), là phim truyền hình nổi tiếng của Hàn Quốc do đài SBS sản xuất, đã lôi cuốn rất nhiều người xem trong năm 2003-2004.
**Bolero** hay **Boléro** (/ˈbɒl ər əʊ/) là một vũ điệu kèm bản nhạc, thường có nhịp độ chậm vừa. Vũ điệu theo kiểu này gọi là múa bolero, còn bản nhạc theo kiểu này gọi
**Witold Roman Lutosławski** (tiếng Ba Lan phát âm: [vitɔld lutɔswafski], sinh ngày 25 tháng 1 năm 1913 - mất ngày 7 tháng 2 năm 1994) là một trong những nhà soạn nhạc lớn của châu
nhỏ| Tổ hợp [[Quảng trường Nhà hát (Warszawa)|nhà hát tại Quảng trường Nhà hát, Warsaw ]] nhỏ|Chơi với sự có mặt của vua Stanisław Augustus, 1790. Bức tranh mô tả nội thất của Nhà hát
**Giải Grammy lần thứ 53** được tổ chức vào ngày 13 tháng 2 năm 2011 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, được truyền hình bởi kênh CBS. Barbra Streisand được vinh danh là nghệ
**Giải Grammy lần thứ 52** diễn ra ngày 31 tháng 1 năm 2010 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California, Mỹ. Chỉ 10 trong số 109 hạng mục của giải được phát sóng trên
thế=slender, middle-aged man, clean-shaven with full head of hair, seen in profile|nhỏ|Ravel năm 1925|345x345px**Joseph Maurice Ravel** (7 tháng 3 năm 1875 – 28 tháng 12 năm 1937) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương
**Si thứ** (viết tắt là **Bm**), còn được gọi là **Đô giáng thứ** (viết tắt là **C♭m**) là một âm giai thứ dựa trên nốt **Si** (tức **Đô giáng**), bao gồm các nốt **Si** (**B**),
**_10 Things I Hate About You_** (10 điều khiến em ghét anh) là một bộ phim hài tình cảm của Mỹ sản xuất vào năm 1999. Phim được đạo diễn bởi Gil Junger và có