✨Colossus (lớp thiết giáp hạm 1910)

Colossus (lớp thiết giáp hạm 1910)

Lớp thiết giáp hạm _Colossus_ bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm ColossusHercules của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nằm trong số những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought đầu tiên tiếp theo sau chiếc Dreadnought hạ thủy vào năm 1906. Nguyên được dự định như một phần của lớp thiết giáp hạm Neptune, hai con tàu này có vỏ giáp dày hơn cùng một số khác biệt so với chiếc Neptune, nên theo truyền thống Neptune được tách ra thành một lớp của riêng nó. Chúng là những thiết giáp hạm dreadnought cuối cùng của Hải quân Hoàng gia được trang bị pháo , vì lớp Orion tiếp theo được trang bị pháo .

Bối cảnh

Vào năm 1908, Bộ Hải quân Anh bắt đầu lo ngại trước thông tin Đế quốc Đức, đối thủ tiềm năng trong một cuộc xung đột hải quân trong tương lai, đang bí mật chế tạo thiết giáp hạm dreadnought để qua mặt số lượng mà Hải quân Anh đang hoạt động. Cuộc vận động nhằm tăng tốc chương trình chế tạo dreadnought được dẫn đầu bởi Đô đốc Jacky Fisher, vốn là Thứ trưởng Hải quân Anh đương nhiệm. Tuy nhiên, vẫn có sự phản đối đáng kể đề nghị này, nhất là bởi Winston Churchill lúc đó đang là Chủ tịch Ủy ban Thương mại. Sự chống đối cuối cùng bị bỏ qua, và Colossus cùng với Hercules được chấp thuận cho chế tạo trong tài khóa 1909. Colossus được hạ thủy vào ngày 9 tháng 4 năm 1910, được hoàn tất và đưa vào biên chế vào tháng 7 năm 1911; Hercules được hạ thủy vào ngày 10 tháng 5 năm 1910 và đưa ra hoạt động vào ngày 31 tháng 7 năm 1911.

Thiết kế

Khi thiết kế lớp Colossus, các nhà lãnh đạo Bộ Hải quân Anh cuối cùng cũng ghi nhận sự mong manh của tàu chiến chủ lực Anh trong bối cảnh Hải quân Đế quốc Đức đã bắt đầu chuyển sang cỡ pháo trên các tàu chiến của họ. Vì vậy độ dày của đai giáp quay trở lại như trên chiếc Dreadnought, nhưng với thỏa hiệp giảm bớt sự bảo vệ bên trong để bù trừ. Thiết kế cũng chịu ảnh hưởng bởi lớp thiết giáp hạm Delaware của Hoa Kỳ có khả năng bắn mười khẩu pháo qua mạn cùng một lúc. Để tiết kiệm 50 tấn trọng lượng bên trên, cột ăn-ten chính được hạ thấp; ngoài trọng lượng, cột ăn-ten chính còn bị cho là kém giá trị. Trong khi đó khiếm khuyết chính của chiếc Dreadnought khi bố trí cột ăn-ten trước ngay phía sau ống khói trước lại bị lặp lại không thể giải thích được. Trên lớp Colossus, tình huống này càng thêm nặng nề do công suất lớn hơn của các nồi hơi mà hơi đốt dẫn vào ống khói.

Hệ thống động lực lần đầu tiên được chia thành ba ngăn thay vì hai. Điều này được cho là nhằm tăng cường chống ngập nước bù trừ lại sự không có vách ngăn bảo vệ. Hệ thống động cơ tương tự như được trang bị trước đây, ngoại trừ sự sắp xếp lại bên trong cho phép phòng động cơ giữa hoạt động độc lập trong điều kiện chạy đường trường để tiết kiệm nhiên liệu.

Dàn pháo chính được giữ lại tương tự như trên lớp Neptune, ngoại trừ phần nhô của các tháp pháo bên mạn được thu nhỏ để tiết kiệm chỗ, cho phép kéo dài phần cấu trúc thượng tầng phía trước và cải thiện việc bố trí dàn pháo hạng hai.

Vũ khí

Dàn pháo chính bao gồm mười khẩu BL /50 caliber Mk XII, bố trí trên năm tháp pháo nòng đôi. Tháp pháo "A" được đặt ở sàn trước trên trục giữa con tàu. Các tháp pháo "P" và "Q" được bố trí so le trên sàn chính, với "P" bên mạn trái phía trước và "Q" bên mạn phải lùi ra phía sau. Các tháp pháo bên mạn trên lý thuyết có góc bắn 170°, tức khoảng 5° từ trục giữa phía mũi đến khoảng 5° từ trục giữa phía đuôi. Chúng cũng có góc bắn giới hạn phía mạn bên kia nếu như tháp pháo mạn kia bị hỏng. Tháp pháo "Y" được đặt ở sàn sau trên mức sàn chính, và tháp pháo "X" được đặt ngay phía trước ở một mức sàn cao hơn để bắn thượng tầng bên trên tháp pháo "Y". Góc bắn của các tháp pháo "A", "X" và "Y" là khoảng 270°. Trọng lượng của đạn pháo bắn ra là , và tốc độ bắn tối đa là hai phát mỗi phút; cho dù để trinh sát điểm đạn rơi, tốc độ bắn thực hành trong tác chiến chỉ là một phát mỗi phút.

Dàn pháo hạng hai bao gồm mười sáu BL Mk VII trên các bệ nòng đơn. Nhằm tăng cường hiệu quả tối đa của chúng trong vai trò phòng thủ chống các cuộc tấn công bằng ngư lôi từ các tàu nhỏ, mười khẩu được bố trí trên cấu trúc thượng tầng phía trước do suy diễn rằng hầu hết các cuộc tấn công ngư lôi xuất phát từ phía trước; sáu khẩu còn lại được bố trí trên cấu trúc thượng tầng phía sau. Đến năm 1917, ba trong số các khẩu này trên Colossus được tháo dỡ, thay bằng một khẩu pháo 4-inch và một khẩu pháo 3-inch phòng không. Chúng còn mang bốn khẩu pháo 3-pounder (57 mm) trên cấu trúc thượng tầng.

Giống như mọi thiết giáp hạm vào thời đó, lớp Colossus còn được trang bị ống phóng ngư lôi. Chúng được đặt trong lườn tàu và phóng ra ngầm dưới nước; được bố trí một ống phóng mỗi bên mạn và một ống phía đuôi. Vũ khí mang theo là ngư lôi Hardcastle , có tốc độ tối đa và tầm hoạt động hiệu quả khoảng .

Trong suốt chiều dài của phần thành trì trung tâm, sàn tàu trên bọc thép dày trong khi sàn dưới dày . Phía sau tháp pháo X, sàn dưới dày và được tăng lên ở tận cùng đuôi tàu để bảo vệ bánh lái và chân vịt. Vách ngăn trước được bố trí ngay trước tháp pháo A, dày phía trên và giảm còn bên dưới lớp sàn bọc thép. Vách ngăn sau được bố trí ngay sau tháp pháo Y, dày và giảm còn . Mặt trước tháp pháo dày trong khi mặt hông dày và nóc dày . Các bệ tháp pháo có độ dày thay đổi từ đến tùy theo mức độ bảo vệ của các lớp giáp lân cận như bệ tháp pháo bên cạnh, lớp giáp hông và sàn tàu. Tháp chỉ huy được bảo vệ bởi vỏ giáp dày , và ống liên lạc dày . Tổng trọng lượng vỏ giáp của con tàu là , trong đó đai giáp chiếm .

Động lực

Động lực được cung cấp bởi các turbine hơi nước Parsons áp lực cao, dẫn động bốn trục chân vịt. Có mười tám nồi hơi do Babcock and Wilcox sản xuất, làm việc dưới áp lực ; mỗi nồi hơi gồm ba lò đốt một lỗ đơn kiểu tiêu chuẩn Admiralty, mỗi lò tiêu thụ than mỗi giờ. Công suất tối đa theo thiết kế là ; các con tàu có thể mang theo tối đa than và dầu đốt, cho phép có tầm hoạt động tối đa ở tốc độ đi đường trường hoặc ở tốc độ . Trong những điều kiện tối ưu khi chạy thử máy, chúng đạt được tối đa , duy trì được tốc độ trong 8 giờ, và đạt được một tốc độ trung bình trong 30 giờ chạy liên tục ở công suất .

Những chiếc trong lớp

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Lớp thiết giáp hạm _Colossus**_ bao gồm hai chiếc thiết giáp hạm _Colossus_ và _Hercules_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, nằm trong số những thiết giáp hạm thế hệ dreadnought đầu tiên tiếp
**Lớp thiết giáp hạm _Orion**_ bao gồm bốn thiết giáp hạm siêu-dreadnought — những con tàu đầu tiên kiểu này — của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Chiếc dẫn đầu, _Orion_, được hạ thủy
**HMS _Colossus**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nguyên được dự định như là chiếc tiếp theo của lớp thiết giáp hạm _Neptune_ bao gồm ba chiếc, nhưng
**HMS _Hercules**_ là một thiết giáp hạm dreadnought của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Nguyên được dự định như là chiếc cuối cùng của lớp thiết giáp hạm _Neptune_ bao gồm ba chiếc, nhưng
**HMS _Orion**_ là một thiết giáp hạm dreadnought được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được hạ thủy vào năm 1910, nó là chiếc dẫn
**HMS _Conqueror**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**HMS _Thunderer**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**HMS _Monarch**_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp _Orion_ được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến
**SMS _Moltke**_ là chiếc dẫn đầu trong lớp tàu chiến-tuần dương _Moltke_ của Hải quân Đế quốc Đức, tên được đặt theo Thống chế Helmuth von Moltke, Tổng tham mưu trưởng quân đội Phổ vào
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Colossus**_: * _Colossus_ (1787) là một tàu chiến tuyến hạng ba 74 khẩu pháo thuộc lớp _Courageux_ hạ thủy năm
**SMS _Seydlitz**_ là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Hercules**_ hay **HMS _Hercule_**, theo tên vị anh hùng trong thần thoại Hy Lạp và La Mã Heracles: * là
Sáu tàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh từng được đặt cái tên **HMS _Edinburgh**_, theo tên thành phố Edinburgh của Scotland; ngoài ra còn một chiếc được đặt cái tên tương tự **HMS