✨HMS Conqueror (1911)
HMS _Conqueror_ là một thiết giáp hạm dreadnought lớp Orion được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó đã phục vụ cùng Hải đội Chiến trận 2 thuộc Hạm đội Grand trong chiến tranh, và đã chiến đấu trong trận Jutland vào ngày 31 tháng 5-1 tháng 6 năm 1916 không bị hư hại. Sau chiến tranh, do những giới hạn của Hiệp ước Hải quân Washington, Conqueror được cho ngừng hoạt động năm 1921 và bị tháo dỡ.
Thiết kế và chế tạo
Bối cảnh
Conqueror và những chiếc chị em được đặt lườn vào lúc chính phủ Đảng Dân chủ Tự do Anh buộc phải thực hiện cam kết lúc tuyển cử sẽ cắt giảm mức độ chi tiêu vũ trang. Những thông tin sai lệch được Tùy viên Hải quân tại Đức cung cấp cho thấy họ đang chế tạo dreadnought với một tốc độ, nếu như không đối đầu, cũng sẽ xấp xỉ ngang bằng với lực lượng Anh. Vào lúc đó đang tồn tại một chính sách có tên "Tiêu chuẩn hai thế lực", đòi hỏi hạm đội chiến trận Anh phải luôn luôn mạnh hơn 10% so với lực lượng của hai cường quốc hải quân tiếp theo cộng lại. Theo như được báo cáo lên chính phủ Anh, kế hoạch của Đức được xem như rõ ràng phá vỡ chính sách này. Vì vậy Reginald McKenna, Bộ trưởng Hải quân Anh, đã thúc đẩy trình kế hoạch chế tạo lớp Orion sang Quốc hội Anh với sự ủng hộ của Thủ tướng Anh H.H. Asquith, nhưng dưới sự phản đối của David Lloyd-George và Winston Churchill.
Được đặt hàng theo Ngân sách Hải quân 1909, Conqueror được hãng William Beardmore and Company chế tạo tại xưởng tàu Dalmuir ở Clydebank với chi phí 1.891.164 Bảng Anh. Nó được đặt lườn vào ngày 5 tháng 4 năm 1910, hạ thủy vào ngày 1 tháng 5 năm 1911 và đưa ra hoạt động vào tháng 11 năm 1912.
Đặc tính chung
Lớp Orion là những thiết giáp hạm dreadnought đầu tiên của Anh, và cũng là đầu tiên trên thế giới ngoại trừ South Carolina và Michigan của Hải quân Hoa Kỳ, trang bị toàn bộ dàn pháo chính trên trục giữa con tàu. Thiết kế này được đưa ra trước khi có quyết định sau cùng về cỡ pháo. Người ta biết phía Đức sản xuất một số lượng lớn nòng pháo cỡ và , trong khi kiểu pháo 12 inch/50 calibre đã đạt đến cuối chu kỳ phát triển, nên có nhu cầu phải tăng cỡ nòng pháo chính lên . Điều này đến lượt nó đưa đến sự gia tăng đáng kể kích thước con tàu so với những chiếc dreadnought trước đó, và trọng lượng choán nước tăng thêm khoảng .
Conqueror có chiều dài chung ; nó có mạn thuyền rộng tối đa và mớn nước . Trong lượng choán nước của nó là ở tải trọng thông thường và lên đến khi đầy tải nặng. Cột ăn-ten trước được bố trí ngay phía sau ống khói trước, giống như trường hợp của HMS Dreadnought và Colossus (nhưng không như các lớp Bellerophon và St. Vincent). Việc này khiến bệ điều khiển hỏa lực bên trên cột hầu như không sống được bởi khói và hơi nóng khi đi vào hướng gió. Lý do duy nhất cho sự sắp xếp này là thuận tiện để bố trí móc treo các chiếc xuồng của con tàu.
Vũ khí
Dàn pháo chính bao gồm mười khẩu pháo BL /45 caliber Mark V đặt trên năm tháp pháo nòng đôi, tất cả đều trên trục giữa con tàu. Tháp pháo "A" bố trí trên sàn trước với góc bắn không giới hạn bên trên sàn tàu khoảng 300°. Tháp pháo "B" được đặt ngay sau tháp pháo "A" một sàn cao hơn; trên lý thuyết nó cũng có góc bắn tương đương, nhưng do việc Bộ Hải quân Anh khăng khăng giữ lại vòm quan sát trên các nóc tháp pháo, việc khai hỏa ngay bên trên tháp pháo "A" gây hiệu ứng áp lực nổ không chịu nổi cho những người bên trong, nên chỉ giới hạn trong góc bắn qua mạn tàu. Tháp pháo "Q", được đặt giữa ống khói sau và cấu trúc thượng tầng phía sau và một sàn thấp hơn tháp pháo "A", có góc bắn 120° qua cả hai bên mạn nhưng không thể bắn trực tiếp ra phía trước hay phía sau. Tháp pháo "X" được đặt ngang mức tháp pháo "A" trên sàn sau và bắn thượng tầng bên trên tháp pháo "Y"; nó có góc bắn lý thuyết và giới hạn tương tự như trường hợp tháp pháo "B" do cùng một lý do. Tháp pháo "Y" được đặt trên sàn sau ngang với tháp pháo "Q" với góc bắn không giới hạn ra phía sau trên 300°. Lượng đạn dược mang theo tối đa của con tàu là 100 quả đạn pháo cho mỗi khẩu pháo.
Kiểu pháo BL 13,5 inch Mark V dài trên , nòng pháo nặng hơn và có tuổi thọ hơn 450 lượt bắn. Chúng bắn ra đạn pháo xuyên thép (CAP) nặng với thuốc nổ hoặc đạn pháo nổ mạnh (HE) nặng với thuốc nổ. Sử dụng liều thuốc phóng cordite, chúng đạt tầm xa tối đa ở góc nâng 20°. Ở khoảng cách đạn pháo xuyên thép (CAP) có thể xuyên thủng vỏ giáp Krupp dày . Tháp pháo kiểu Mark V trang bị cho Conqueror nặng khoảng .
Mười sáu khẩu pháo BL Mk VII nạp bằng khóa nòng được trang bị cho dàn pháo hạng hai. Chúng được bố trí đối xứng với tám khẩu trên cấu trúc thượng tầng phía trước có góc bắn ra phía trước và bên mạn, và tám khẩu trên cấu trúc thượng tầng phía sau bắn ra bên mạn và phía sau; chúng bắn ra đạn pháo nặng đến tầm xa tối đa và có tốc độ bắn từ 6 đến 8 phát mỗi phút. Vì thế Conqueror và các tàu chị em được trang bị vỏ giáp mạnh và rộng rãi hơn so với những chiếc dreadnought Anh trước đó. Đai giáp ở mực nước dày , kéo dài từ ngang giữa bệ tháp pháo "A" đến bệ tháp pháo "Y"; mép dưới của đai giáp mở rộng bên dưới mực nước ở tải trọng thông thường. Một vách ngăn bọc thép dày bố trí ở phần cuối của đai giáp chung quanh bệ tháp pháo "Y", và thêm một vách ngăn khác ở giữa nó và đuôi tàu dày ; cả hai mở rộng từ sàn dưới đến sàn trên. Vách ngăn phía trước kéo dài từ mép trước của đai giáp cả hai bên mạn đến mặt bệ tháp pháo "A" dày giữa sàn trước và sàn chính, và giữa sàn chính và sàn dưới. Một vách ngăn khác dày được bố trí giữa nó và mũi tàu, khoảng một-phần-ba khoảng cách từ mũi đến bệ tháp pháo phía trước.
Có bốn lớp sàn tàu bọc thép. Sàn trên và sàn chính dày , sàn giữa dày trong khi sàn dưới dày vuốt mỏng còn 1 inch phía trước và vuốt mỏng còn phía sau. Chỗ dày nhất được bố trí bên trên hầm đạn và động cơ. Tháp chỉ huy được bảo vệ bởi vỏ giáp dày .
Lịch sử hoạt động
Conqueror được đưa ra hoạt động vào tháng 11 năm 1912 và là chiếc cuối cùng trong số bốn chiếc trong lớp Orion được hoàn tất, sau các chiếc Orion, Monarch và Thunderer; tất cả hình thành nên Đội 2 của Hải đội Chiến trận 2. Đơn vị này gia nhập Hạm đội Nhà vào năm 1914; và vào ngày 27 tháng 12 năm 1914 nó bị con tàu chị em Monarch húc phải, gây hư hại đáng kể cho cả hai con tàu. Conqueror được sửa chữa tạm thời tại Scapa Flow và Invergordon trước khi được sửa chữa hoàn toàn tại Devonport. Nó gia nhập trở lại hạm đội vào tháng 3 năm 1915.
Trong trận Jutland vào ngày 31 tháng 5 năm 1916, cả bốn chiếc trong lớp Orion đều hiện diện dưới sự chỉ huy của Chuẩn đô đốc Arthur Leveson, đặt cờ hiệu của mình trên chiếc Orion; chỉ huy của Conqueror là Hạm trưởng Đại tá Hải quân O. Backhouse. Người ta cho rằng Conqueror đã gặp trục trặc động cơ trong trận chiến và không thể duy trì tốc độ , vì một tín hiệu của Đô đốc John Jellicoe lúc 17 giờ 17 phút chỉ thị cho Thunderer sẵn sàng thay vị trí nếu Conqueror không giữ được tốc độ. Conqueror tham chiến lúc 18 giờ 31 phút khi nó trông thấy một thiết giáp hạm Đức thuộc lớp König ở khoảng cách và đã bắn ba loạt đạn pháo 13,5 inch; không phát nào trúng đích và mục tiêu nhanh chóng biến mất trong làn khói và sương mù. Vài phút sau chiếc tàu tuần dương Wiesbaden bị đánh hỏng xuất hiện, nó đã bị tàu chiến-tuần dương Invincible đánh bất động, và giờ đây bị một số lớn thiết giáp hạm Anh nả pháo. Đến 19 giờ 12 phút, Conqueror đụng độ với các tàu khu trục thuộc các chi hạm đội 3, 6 và 9 của Đức đang tung ra đợt tấn công bằng ngư lôi nhằm thu hút Hạm đội Grand để Hạm đội Biển khơi Đức thoát về phía Nam, đồng thời cũng nhằm cứu những người sống sót của Wiesbaden. Conqueror đối đầu với chúng bằng đạn pháo 13,5 inch nhưng không trúng phát nào.
Trong suốt trận chiến Conqueror đã bắn tổng cộng 57 quả đạn pháo 13,5 inch, gồm 16 quả đạn xuyên thép và 41 quả đạn nổ mạnh; nó không chịu bất kỳ thiệt hại hay thương vong nào. Sau trận này Hạm đội Biển khơi Đức rất ít khi xuất hiện tại Bắc Hải nên nó chỉ hoạt động thuần túy trong nhiệm vụ tuần tra và càn quét. Sau chiến tranh, do những giới hạn của Hiệp ước Hải quân Washington, Conqueror được cho ngừng hoạt động vào năm 1921 và bị bán để tháo dỡ vào năm 1922.