✨Claude Debussy

Claude Debussy

Achille Claude Debussy (; 22 tháng 8 năm 1862 –25 tháng 3 năm 1918) là một nhà soạn nhạc người Pháp nổi tiếng. Cùng với Maurice Ravel, ông được coi như nhà sáng tác nổi bật nhất trong trường phái âm nhạc ấn tượng (mặc dù bản thân ông không thích thuật ngữ này được dùng để miêu tả những sáng tác của mình) Ông là tên tuổi lớn trong nền âm nhạc châu Âu vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Ông đã để lại nhiều tác phẩm kinh điển cho âm nhạc Pháp thời kỳ này, chủ yếu là các bản giao hưởng, nhạc thính phòng và các bản solo piano.

Tiểu sử

Gia đình Debussy có gốc lâu đời, là nhánh của dòng họ Burgundy, đã là nông dân từ những năm 1600. Thời thơ ấu của nhạc sĩ Claude Debussy ít được biết đến. Khi Claude sinh ra thì gia đình đang sở hữu một cửa hàng đồ sứ nhỏ và cậu được người cô Clémentine dạy dỗ. Người cô này có mối quan hệ với nhà sưu tập nghệ thuật Achille-Antoine Arosa, và ông trở thành cha đỡ đầu của Claude.

Hoạt động âm nhạc

Lần đầu tiên Claude đến với âm nhạc là từ chuyến đi Riviera, ở đó cậu được học piano từ Giovanni Cerutti, một giáo viên người Ý. Được trao học bổng nhà nước, cậu vào học ở nhạc viện Paris, ở đây, thầy giáo piano Marmontel đã nhanh chóng nhận ra tài năng âm nhạc đặc biệt của cậu. Cậu còn học hòa âm với Emile Durand và học sơ qua về organ với César Franck. Để kiếm thêm, Claude còn đi gia sư piano và đệm đàn cho những người nghiệp dư giàu có. Quá trình làm việc trong các gia đình giàu có đã thường xuyên đưa cậu đi xa, các chuyến đi Italy và Nga đã có một ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc đến trí tuệ và cảm xúc của cậu. Công việc là nghệ sĩ piano cho đại gia đình Marguérite Wilson–Perlouze đã đem lại cho cậu cơ hội được ở một thời gian trong một trường văn hóa nghệ thuật rất thú vị, đó là lâu đài đẹp đẽ ở Chenonceaux, cậu đã ở cùng với nhiều nghệ sĩ khác, trong đó có cả nhà văn George Sand.

Năm 1880, ở tuổi 18, Debussy bắt đầu làm việc cho Nadia von Meck, người bảo trợ nổi tiếng của Tchaikovsky, và đã cùng với bà đi vòng quanh châu Âu (ở Vienna, cậu còn được xem cả vở Tristan và Isolde của Wagner). Quá sốt ruột với những hòa âm truyền thống đang học ở nhạc viện, cậu đã bắt đầu mày mò đưa các chủ đề của De Musset vào âm nhạc và viết nên bản Trio Piano Son trưởng, đây là tác phẩm mới được tìm lại.

Debussy cũng dành ba mùa hè (1880 - 1882) để làm việc cho Nadia von Meck, chơi piano cho gia đình và dạy nhạc cho nhiều đứa con của bà, chúng nhớ đến Debussy "như một người Pháp tế nhị nhưng vui vẻ, người không bao giờ ở yên một chỗ và luôn mang lại một sức sống cần thiết cho bầu không khí ngột ngạt của gia đình". Tuy nhiên, chính một chuyến đi Nga đã quyết định đến sự phát triển tài năng nghệ thuật của Debussy, bởi vì anh đã khám phá ra âm nhạc của Mussorgsky, người đã vừa qua đời trong bệnh viện quân y ở St. Petersburg. Những cấu trúc bất hình dạng tuyệt vời và những hình ảnh chất phác một cách tự nhiên của Mussorgsky đã gây nên một ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp là một nhà soạn nhạc của Debussy. Anh cũng có rất nhiều ấn tượng khi được nghe âm nhạc dân gian và gypsy ở đây. Cuộc đời nghệ thuật thực sự của Debussy ở Paris bắt đầu vào cuối năm 1881 khi anh gặp gỡ gia đình kiến trúc sư Vasnier, một trí thức cực kỳ rộng rãi phóng khoáng, có người vợ là một ca sĩ xinh đẹp, người đã lần đầu tiên hát nhiều bài hát đầu tay của Debussy.

Lập trường âm nhạc và nhận thức của Debussy mang màu sắc của hai khuynh hướng nghệ thuật chủ đạo trong thời đại của ông, chủ nghĩa Tượng trưng trong văn học và chủ nghĩa Ấn tượng trọng hội họa, những chủ nghĩa này đã từ bỏ tất cả các hình thức chính thống, tính hàn lâm học thuật hoặc chỉ đơn thuần là tính thụ động. Và cũng không ngạc nhiên gì khi khi những chủ nghĩa đó phải chịu những phản ứng coi thường của giới nghệ thuật được coi là chính thống thời bấy giờ. Từ năm 1885 đến 1887, Debussy sống tại biệt thự Medici ở Roma sau khi được trao Giải thưởng Roma với bản cantata L’enfant prodigue (Đứa trẻ lang bạt, 1884). Debussy ngày càng trở nên nổi bật với sự cách tân nghệ thuật trong thời đại của ông. Ở Roma, ông đã sáng tác hai tác phẩm cho dàn nhạc, Zuleima và Le printemps (Mùa xuân) lấy cảm hứng từ bức họa nổi tiếng của Botticelli, cả hai tác phẩm này đều bị hội đồng thẩm định Viện hàn lâm phê bình gay gắt vì chủ nghĩa phản quy tắc (anti-conformism) của chúng. Điều này đã đẩy sáng tác thứ ba của ông vào một sự ép buộc đối với một người được nhận Giải thưởng Roma, La demoiselle élue (Thánh nữ, 1886 - 1887), dựa trên phần lời của Dante Gabriel Rossetti.

Debussy trở nên gần gũi với âm nhạc của Wagner trong sáu năm, từ 1887 đến 1893, và mặc dù, trước công chúng ông tỏ ra không đồng tình với Wagner, nhưng nhiều nhà phê bình đã nhận thấy rằng đây chỉ là một điệu bộ để che giấu sự ngưỡng mộ và kính nể của ông đối với âm nhạc của nhà soạn nhạc người Đức này. Tuy Debussy đã từng coi Wagner là "một lão già chuyên đầu độc tinh thần", nhưng sự ảnh hưởng của Wagner đến âm nhạc của ông là rất rõ ràng trong các tác phẩm La demoiselle (Thiếu nữ), Pelléas et Mélisande và Sự hy sinh của St Sebastian.

Trở về Paris năm 1888, Debussy đã cắt đứt mối quan hệ lâu dài với Gaby Dupont để cưới Lily Texier, và tiếp tục giao thiệp với những nghệ sĩ theo chủ nghĩa Tượng trưng, tất cả những người này đều là những người ủng hộ Wagner rất mạnh mẽ. Khi Debussy đến buổi dạ hội âm nhạc Ngày Thứ Ba tại nhà riêng của nhà thơ Stéphane Mallarmé, ông đã cảm hứng từ một bài thơ của nhà thơ này để viết nên một tuyệt tác đầu tiên, Prélude à l’après-midi d’une faune (Khúc dạo đầu Giấc nghỉ trưa của thần Điền dã, 1894). Bài thơ của Mallarmé là hình ảnh về những người phụ nữ trong một buổi trưa mùa hè nóng như thiêu như đốt, và âm nhạc của Debussy là một sự diễn dịch tài tình bầu không khí đầy ảo giác và mang tính gợi tả của bài thơ. Đối với khán giả, nó đã thành công ngay trong lần trình diễn đầu tiên, nhưng đối với các nhà phê bình, nó lại bị gây khó dễ. Tuy nhiên, Mallarmé lại rất thích thú, ông viết cho Debussy: "Ngài đã dịch ngôn từ của tôi thành những hòa âm hoàn hảo, ngoại trừ một điều là tác phẩm của ngài còn đi xa hơn thế, nó đã xuyên sâu vào tận cùng của sự luyến tiếc quá khứ, nó chứa đựng sự cảm nhận phong phú và sâu sắc về những thứ ánh sáng mơ hồ". Prélude à l’après-midi d’une faune là tác phẩm điển hình cho phong cách âm nhạc gợi tả tinh tế của Debussy: một sự cảm nhận nửa vời và hoàn toàn lơ đãng, với một nhóm nhỏ các chủ đề mà dường như không bao giờ được phát triển một cách trọn vẹn.

Tiếp tục với những sáng tác như Trois chansons de Bilitis (1897) (Ba bài hát của Bilitis) cho giọng hát và piano, và ba Nocturne (1897 - 1898) cho hợp xướng nữ và dàn nhạc, Debussy đã tập trung vào âm nhạc cho piano để viết nên Tổ khúc Bergamasque (1895 - 1899) nổi tiếng. Vở opera duy nhất của ông, Pelléas et Mélisande, dựa trên vở kịch của Maurice Maeterlinck mà ông đã xem ở Paris năm 1893, cũng bắt đầu được viết trong thời kỳ này. Mười năm sau, nó được trình diễn lần đầu tiên tại Opéra Comique ở Paris vào ngày 30/4/1902, nó đã tạo ra một sự phản ứng hỗn hợp giữa sự phản cảm gay gắt và sự phấn khích cuồng nhiệt, chính nó đã làm kết thúc mối quan hệ bạn bè của Debussy với Maeterlinck, người đã công khai chỉ trích việc Debussy đã từ chối, không cho một ca sĩ vốn là bạn của Maeterlinck, được hát trong vở opera. Hình như là Maeterlinck đã không nghe vở opera mãi cho đến tận 1920, khi Debussy đã qua đời. Ngay sau buổi biểu diễn, ông đã viết cho Mary Garden: "Tôi đã tự thề với mình là tôi sẽ không bao giờ đi xem Pelléas et Mélisande, nhưng hôm qua tôi đã tự phá lời thề, và tôi thấy vui. Nhờ có bạn, lần đầu tiên tôi đã hiểu được tác phẩm của chính mình". Trong Pelléas et Mélisande, Debussy đã tạo ra một sự diễn đạt hư ảo mới, trong đó giai điệu được dựa trên các nhạc tố của hợp âm ba nốt. Theo một nhà phê bình (Lockspeiser) "thành tựu lớn nhất trong những năm tháng trưởng thành của Debussy là sự chuyển đổi của opera vào thi ca".

Ngay sau Pelléas là một tiểu phẩm cho piano, Les estampes (Những bức tranh khắc) và vào năm 1903, Debussy bắt đầu viết tuyệt tác lớn nhất của ông, La mer (Biển), gồm ba phác họa giao hưởng cho dàn nhạc. Debussy đã viết cho nhà soạn nhạc André Messager vào năm 1903: "Có lẽ ngài không biết rằng, tôi luôn luôn hướng đến cuộc sống thú vị của một thủy thủ, và rằng, chỉ vì những thăng trầm của cuộc đời đã ngăn cản tôi theo đuổi cái thiên hướng nghề nghiệp thực sự của mình". Chủ đề về nước, một trong những biểu tượng yêu thích của Debussy, được tìm thấy trong rất nhiều tác phẩm của ông, bao gồm cả Pelléas, trong tác phẩm này, nó trở thành một Chủ đềâm nhạc và hội thoại trọng yếu. Toàn bộ vở opera được choán đầy bởi tập hợp những hình ảnh: suối nước, biển bão, giếng nước, vẻ tráng lệ của những mặt nước đáng đóng băng, và những vật thể mờ đục khác. Debussy đã bị ám ảnh bởi cái bản chất biến đổi của nước, bởi những vòng xoáy, cuộn lại hay tan ra, trong suốt hay mờ đục – nhìn vào những chiều sâu của nó, với sự hiện hữu đầy sức mạnh và thậm chí là đau đớn của những cảm nhận và tư duy vô thức.

Sau La mer, Debussy bắt đầu làm việc với tuyển tập thứ hai về Các hình ảnh cho piano, xuất bản Tổ khúc Bergamasque vàIberia năm 1905, và hoàn thành một tổ khúc nhỏ cho piano, Góc trẻ thơ, tặng cho Chouchou, con gái của ông, có trong cuộc hôn nhân lần thứ hai với Emma Moyse Bardac, một phụ nữ có địa vị xã hội cao. Trong năm sau, Debussy nhận ra rằng ông bị ung thư nặng và bắt đầu phải dùng morphine để vượt qua những cơn đau dễ dàng hơn, nhưng ông vẫn tiếp tục làm việc và sáng tác, ngay cả khi yếu đến mức không thể rời khỏi giường. Những khúc dạo đầu cho piano tập 1 được hoàn thành năm 1910, và trong thời gian đó, Debussy đã có thể gặp được những nhà soạn nhạc châu Âu quan trọng nhất trong thời đại của ông. Ông đã gặp Richard Strauss, nhà soạn nhạc đương đại hàng đầu của Đức, ở Paris năm 1906 và ngay sau đó viết một bài báo về ông (sau này được xuất bản ở Monsieur Croche antidilettante, một tuyển tập về phê bình âm nhạc của Debussy) và năm 1910, ông gặp Gustav Mahler, âm nhạc của Mahler bấy giờ bị chế nhạo ở Paris (nó bị coi là quá theo phong cách Schubert và Slave).

Có rất nhiều mâu thuẫn xung quanh sự khác nhau của âm nhạc Đức và âm nhạc Pháp trong suốt thời kỳ này, và sự tranh luận về khuynh hướng dân tộc và bản chất âm nhạc thuần túy đã dự báo trước cho một cuộc xung đột bao trùm khắp châu Âu sau đó một thời gian ngắn. Có những năm mà châu Âu hình thành Đồng minh Ba nước giữa Đức, Áo-Hung, Italy, và Hiệp ước Ba bên giữa Pháp, Nga, Anh, tất cả các phe này đều đang lao vào chuẩn bị cho chiến tranh. Trong bầu không khí ngột ngạt và căng thăng của các mối quan hệ quốc tế, cả Debussy và Fauré đều từ chối không tham gia vào Festival Pháp ở Munich.

Debussy gặp Igor Stravinsky năm 1910. Họ nói chung là mang những quan điểm âm nhạc khác xa nhau, và mối quan hệ bạn bè của họ cũng không phải thực sự là êm đẹp, tuy nhiên, trên thực tế thì họ đã hết sức ngưỡng mộ các tác phẩm của nhau.

Vào tháng 2 năm 1911, Debussy bắt đầu viết nhạc sân khấu cho Le martyre de Saint Sebastien (Sự hy sinh của St Sebastien), vở kịch tôn giáo năm màn của Gabriele d’Annunzio, được biểu diễn ngày 25/5/1911 tại nhà hát Châtelet ở Paris với biên đạo múa do Fokine và trang phục do Bakst. Mặc dù có phần âm nhạc gợi tả thú vị của Debussy, nhưng tác phẩm đã không thành công. Giữa những năm 1910 và 1915, Debussy hoàn thành các Prelude và Etude của ông, chúng đã được coi là những tuyệt tác của âm nhạc piano thế kỷ 20, tiếp đó, năm 1912, là vở ballet Jeux (Những trò chơi), được sáng tác cho đoàn Ballet Russe của Diaghilev, theo ý tưởng của Nijinsky, một diễn viên kiêm biên đạo múa. Một vở ballet khác cho thiếu nhi, La boite à joujou (Hộp đồ chơi), ra đời năm 1913. Tác phẩm cuối cùng của ông, Sonata cho violin, viết năm 1917. Debussy mất ở Paris ngày 25 tháng 3 năm 1918 vì bị bệnh ung thư.

Mặc dù Debussy sáng tác thất thường và không liên tục, nhưng ông đã cực kỳ thành công trong việc phác họa lại những hình ảnh phù du, thoáng hiện lên trong nhận thức của con người về âm nhạc. Debussy đã không lập nên bất cứ trường phái nào và cũng không đưa ra bất cứ một quy tắc định dạng lý thuyết nào đối với sự diễn đạt của ông dựa trên sự thực chứng với các âm sắc, hòa âm và sự thể hiện âm nhạc trong nhận thức của chúng ta về tự nhiên.

Media

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Achille Claude Debussy** (; 22 tháng 8 năm 1862 –25 tháng 3 năm 1918) là một nhà soạn nhạc người Pháp nổi tiếng. Cùng với Maurice Ravel, ông được coi như nhà sáng tác nổi
**Nocturne, L. 91**, hay còn gọi là **Trois Nocturnes** (tiếng Việt: Ba bản nocturne) là ba tác phẩm của nhà soạn nhạc người Pháp Claude Debussy. Các tác phẩm này được đề tặng cho Rosalie
**4492 Debussy** là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện ngày 17 tháng 9 năm 1988 bởi Eric Elst. Nó được đặt theo tên nhà soạn nhạc Pháp Claude Debussy. Tiểu
**Pelléas et Mélisande** là vở opera 5 màn của nhà soạn nhạc người Pháp Claude Debussy. Tác phẩm có lời được chuyển thể từ vở kịch cùng tên của Maurice Maeterlinck. Vở opera này làm
**Sonata cho violin và cello, cung Đô trưởng** là bản sonata của nhà soạn nhạc người Pháp Maurice Ravel. Ông viết tác phẩm này trong các năm 1920-1922. Ông viết tác phẩm này không có
thế=slender, middle-aged man, clean-shaven with full head of hair, seen in profile|nhỏ|Ravel năm 1925|345x345px**Joseph Maurice Ravel** (7 tháng 3 năm 1875 – 28 tháng 12 năm 1937) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương
**_Pour le piano_** (_Dành cho piano_), L. 95, là một tổ khúc dành cho độc tấu piano của Claude Debussy. Nó bao gồm ba chương sáng tác riêng lẻ, Prélude, Sarabande và Toccata. Bộ này
**Công viên Jan Kochanowski** là một khu vực tự nhiên rộng 3,15 ha, nằm ở trung tâm thành phố Bydgoszcz, Ba Lan. Nó là một phần của "Khu âm nhạc ở Bydgoszcz" (). ## Vị
Dàn nhạc giao hưởng [[München, 2008]] **Dàn nhạc giao hưởng** là một tổng thể về biên chế các nhạc cụ được sử dụng theo những nguyên tắc nhất định nhằm phục vụ cho việc diễn
nhỏ|Mở đầu bản Dạ khúc [[ôput 15 số 3 của Chopin. Ngay từ đầu, tác giả đã ghi rõ cách biểu diễn là "languido e rubato" (chậm và nhẹ nhàng), với nhịp 3/4 tạo ra
**Leslie Claire Margaret Caron** () sinh ngày 1 tháng 7 năm 1931 là nữ diễn viên điện ảnh và nữ diễn viên múa người Pháp, đã xuất hiện trong 45 phim từ năm 1951 tới
**César-Auguste-Jean-Guillaume-Hubert Franck** (1822-1890) là nhà soạn nhạc người Pháp gốc Bỉ. Ông là một trong những người có ảnh hưởng tới âm nhạc Pháp thế kỷ XIX. Với tài năng sư phạm của mình, César
**Rê giáng trưởng** là một cung trưởng không mấy thông dụng với hóa biểu 5 dấu giáng. Thứ tự các nốt lần lượt là: Rê giáng, Fa, Sol giáng, La giáng, Si giáng và Đô.
là một trường phái hội họa phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ XVII tới thế kỷ XIX tại Nhật Bản. Các nghệ sĩ thể loại hội họa này sản xuất các bản in và
**Mazurka** (tiếng Ba Lan **mazurek**, số nhiều _mazurki_) là một điệu vũ dân gian Ba Lan, với nhịp 3/4 hoặc 3/8 có phách mạnh nằm ở nhịp thứ 2 hoặc nhịp 3. Vũ điệu này
Nhà hát Châtelet **Nhà hát Châtelet** (tiếng Pháp: _Théâtre du Châtelet_) là nhà hát của thành phố Paris, nằm tại số 1 quảng trường cùng tên, thuộc Quận 1. Được mở cửa từ năm 1862,
nhỏ|Giai kết chính thức/thực sự(perfect authentic cadence) (IV–V–I Hợp âm, tại đó chúng ta thấy hợp âm Fa trưởng, Son trưởng, và sau đó là Đô trưởng trong phần hòa âm thứ 4) trong Đô
nhỏ|phải|Honegger trên tờ tiền 20 franc Thụy Sĩ năm 1996. **Arthur Honegger** (; sinh ngày 10 tháng 3 năm 1892 tại Le Havre, mất ngày 27 tháng 11 năm 1955 tại Paris) là nhà soạn
nhỏ| _[[Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa_, bản họa được biết đến nhiều nhất trong bộ tác phẩm.
(Tái bản thời Shōwa (1926–1989) bởi Adachi)]] là một loạt tranh in phong cảnh của nghệ sĩ ukiyo-e
**Belle Époque** là một từ tiếng Pháp, có nghĩa là "**Thời kỳ tươi đẹp**", được dùng để chỉ một giai đoạn chủ yếu ở châu Âu từ khoảng cuối thế kỷ 19 tới cho năm
**Giải thưởng La Mã** hay **Giải thưởng Rome** (tiếng Pháp: _Prix de Rome_) là một giải học bổng cho những sinh viên ngành nghệ thuật. Giải này được tạo ra năm 1663 ở Pháp dưới
**Maximilian Raoul Steiner** (10 tháng 5 năm 1888 – 28 tháng 12 năm 1971) là một nhà soạn nhạc kiêm nhạc trưởng người Mỹ gốc Áo. Nổi tiếng qua những bản nhạc cho các tác phẩm
**Alice Sara Ott** (ælɪs ˈsærə ɔt / **_a-lit xa-ra ôt_**) là nữ nghệ sĩ dương cầm người Đức - Nhật Bản, nổi tiếng về tài năng biểu diễn dương cầm nhạc cổ điển, là một
phải|nhỏ|Hình ảnh mô tả cảnh Charles bị giam cầm trong Tháp Luân Đôn từ một bản thảo được phát hiện về các bài thơ của ông **Charles I xứ Orléans** (24 tháng 11 năm 1394
**Tuấn Mạnh** hay **Mạnh Piano** (tên thật **Nguyễn Tuấn Mạnh**, sinh ngày 30 tháng 12 năm 1986) là một nghệ sĩ dương cầm. Anh đã phát hành nhiều album nhạc, trong đó có các nhạc
**María Grever** (tiếng Việt: "ma-ria grê-vơ", tiếng Anh: "mɑríə ˈgrɛvər") là nhà soạn nhạc nữ đầu tiên của Mêxico được sự hoan nghênh nồng nhiệt trên quốc tế, bắt đầu nổi tiếng trên thế giới
**Anastasia Huppmann** (tên tiếng Nga: Анастасия Хуппманн, phiên âm tiếng Việt: /a-nas-ta-xia khup-man/, tiếng Anh: /ænəˈsteɪʒə hʌpmæn/) là một nghệ sĩ dương cầm người Áo gốc Nga, thường được nhắc đến nhờ những biểu diễn
thumb **Capri** (thường được phát âm là trong tiếng Anh; , ) là một hòn đảo ở Địa Trung Hải, nằm về phía Nam vịnh Napoli trong vùng Campania nước Ý. Từ thời
**Étude**, còn được hiểu nôm na là "khúc luyện", trong âm nhạc, nó là một bản nhạc ngắn để người chơi luyện tập. Một nhạc công trong đời trung bình phải tập khoảng từ 200
**Humphrey DeForest Bogart**, thường được biết tới với tên **Humphrey Bogart** (25 tháng 12 năm 1899 – 14 tháng 1 năm 1957) là một diễn viên người Mỹ. Tuy chỉ một lần giành Giải Oscar
**Giacomo Antonio Domenico Michele Secondo Maria Puccini** (22 tháng 12 năm 1858 - 29 tháng 11 năm 1924) là một nhà soạn nhạc vĩ đại người Ý. Ông là nhà soạn nhạc chuyên soạn opera.Các
**Clichy** là một Thành phố trong vùng đô thị Paris, thuộc tỉnh Hauts-de-Seine, vùng hành chính Île-de-France của nước Pháp, có dân số là 50.179 người (thời điểm 1999). ## Những người con của thành
**Saint-Germain-en-Laye** là một xã trong vùng đô thị Paris, thuộc tỉnh Yvelines, vùng hành chính Île-de-France của nước Pháp, có dân số là 38.423 người (thời điểm 1999). ## Các thành phố kết nghĩa *
nhỏ|phải|Nghĩa trang Passy **Nghĩa trang Passy** (tiếng Pháp: _Cimetière de Passy_) là một nghĩa địa của thành phố Paris nơi chôn cất rất nhiều người nổi tiếng, nghĩa trang hiện nằm tại trung tâm thành
**Anacapri** là một đô thị của Ý, nằm trên đảo Capri thuộc Thành phố đô thị Napoli trong vùng Campania. Anacapri có diện tích 6,39 km2, dân số theo ước tính năm 2004 của Viện
phải|nhỏ|Carl Maria von Weber **Carl Maria Fridrich Ernst von Weber** (18-19 tháng 11 năm 1786 - 4-5 tháng 1826) là một nhà soạn nhạc, nhạc trưởng, nghệ sĩ dương cầm, nghệ sĩ ghi ta và
phải|Hai khổ đầu giai điệu bài "[[Oh! Susanna" của Stephen Foster dựa trên âm giai ngũ cung trưởng .]] **Âm giai ngũ cung** hay còn gọi là **pentatonic** là một âm giai với 5 nốt
Âm nhạc thời lãng mạn chủ yếu chú trọng đến cảm xúc con người trong thể hiện âm nhạc; giai điệu trở nên mượt mà, tình cảm hơn. Các thể loại chính trong thời kì
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Rimsky-Korsakov_Serow_crop.png|thế=Head of a man with dark greying hair, glasses and a long beard|nhỏ|273x273px|Chân dung Nikolai Rimsky-Korsakov năm 1898, được vẽ bởi [[Valentin Alexandrovich Serov|Valentin Serov (trích đoạn)]] **Nikolai Andreyevich Rimsky-Korsakov** (, 18 tháng 3 (ngày
**Toccata** (Tiếng Ý _toccare_) là một phong cách nghệ thuật chơi ngón nghiêng về tính linh hoạt, tốc độ và sự khéo léo. ## Một số nhà soạn nhạc nổi bật * Claudio Monteverdi *
**Prelude** (Đức: _Präludium_; Pháp: _Prélude_; Ý: _Preludio_) là một đoạn nhạc ngắn có hình thức thay đổi theo từng phần. Đối với tiếng Việt có thể hiểu như là **khúc dạo đầu**. ## Lịch sử
**_Make Mine Music_** là bộ phim hoạt hình dạng tuyển tập năm 1946 của Hoa Kỳ do Walt Disney sản xuất và được phát hành tới các rạp vào ngày 20 tháng 4 năm 1946.
**Charles-Camille Saint-Saëns** (; sinh 9 tháng 10 năm 1835 tại Paris, mất 16 tháng 12 năm 1921 tại Algiers), còn được biết đến với bút danh Sannois, là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano,
**Charles-Valentin Alkan** (30 tháng 11 năm 1813 - 29 tháng 3 năm 1888) là một nhà soạn nhạc và nhạc công piano người Pháp gốc Do Thái. Ông sinh ra tại Paris, Pháp. Khi qua
**Édouard-Victoire-Antoine Lalo** (27 tháng 1 năm 1823 – 29 tháng 4 năm 1892) là một nhà soạn nhạc người Pháp thuộc thời kì Lãng mạn. ## Tiểu sử Lalo được sinh ở Lille (Nord), phía
**Georges Bizet** (25 tháng 10 năm 1838 - 3 tháng 6 năm 1875) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn piano nổi tiếng người Pháp, người được biết đến với vở opera nổi tiếng Carmen,
**Vyvyan Lorrayne** (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1939) là một vũ công ba lê người Nam Phi, hiện đã nghỉ hưu. Được chú ý là "nhà tạo mẫu cổ điển nhẹ nhàng", cô đã
**Paul Badura-Skoda** (6 tháng 10 năm 1927 - 25 tháng 9 năm 2019) là một nghệ sĩ dương cầm người Áo. ## Danh sách đĩa nhạc * Paul Badura-Skoda. Mozart. Pianoforte Sonatas. Played on a
**Alexei Lubimov** (sinh năm 1944, tên đầy đủ là Алексе́й Бори́сович Люби́мов, Alexey Borisovich Lyubimov) là một nghệ sĩ piano người Nga, nghệ sĩ đàn fortepiano và đàn harpsichord. Lubimov từng học tại Nhạc viện
là một series manga Nhật Bản được viết bởi Shirodaira Kyo và minh họa bởi Mizuno Eita. Bộ manga được xuất bản bởi Enix và sau đó là Square Enix trên tạp chí _Monthly Shōnen