Tổ khúc là một thể loại nhạc hòa tấu không lời, gồm nhiều bản nhạc khác nhau nhưng cùng thể hiện một chủ đề nhất định, được biểu diễn một cách nối tiếp liên tục thành một nhạc phẩm duy nhất. Khái niệm này gốc từ tiếng Pháp là "suite" (có nghĩa là nối tiếp, tiếp tục), biểu thị sự liên tiếp của các bộ phận âm nhạc cấu thành thường theo một trình tự cụ thể hoặc liên kết nhau với một chủ đề trung tâm. Ví dụ như nhạc phẩm "Các hành tinh" của Gustav Holst là tổ khúc khá rõ ràng: nhạc phẩm này mô tả bằng âm nhạc các hành tinh của Hệ Mặt trời, lần lượt là: Hỏa Tinh, Kim Tinh, Thủy Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh và Hải Vương Tinh, trong đó mỗi bản nhạc độc lập mô tả một hành tinh.
Đây là một thể loại nhạc cổ điển, phát triển từ thời đại Phục hưng. Sau đó, nó có bước phát triển mạnh mẽ vào thời kỳ âm nhạc Baroque, trước khi phải nhường chỗ cho rất nhiều thể loại âm nhạc khác gồm sonata, concerto và giao hưởng vào thời kỳ âm nhạc Cổ điển. Tiếp theo, nó phát triển mạnh mẽ nhất vào thời kỳ âm nhạc Lãng mạn, rồi thể loại này có phần thoái trào vào thế kỷ XX. Tổ khúc là thể loại âm nhạc nhiều phần, số lượng các phần không bắt buộc cố định mà hoàn toàn tùy thuộc vào nhạc sỹ sáng tác.
Lịch sử
Thời kỳ âm nhạc Phục hưng
Tổ khúc xuất phát từ việc ghép các vũ khúc lại với nhau. Việc làm này có từ thế kỷ XIV. Tuy nhiên, tác phẩm được coi là bản tổ khúc đầu tiên là Suyttes de bransles, một tác phẩm được Estienne du Tertre sáng tác vào năm 1557. Đó không phải là một tổ khúc thực sự vì tác phẩm này chỉ đơn thuần là kết quả của việc ghép hơn là việc hình thành một chuỗi được chơi thực sự. Phần lớn các nhóm vũ khúc từ thập niên 1540 cho đến cuối thế kỷ XVI đều là các cặp tác phẩm. Đến bước ngoặt của thế kỷ, các nhà soạn nhạc ở nước Anh bắt đầu việc mở rộng quy mô của tổ khúc bằng việc thay vì chỉ ghép các vũ khúc với nhau, họ ghép các nhóm vũ khúc với nhau. Nhưng tác phẩm đầu tiên được xuất bản với tư cách là tổ khúc được hình thành do ghép đồng bộ là Newe Padouan, Intrada, Däntz und Galliarda, tác phẩm được sáng tác vào năm 1611 của Paul Peuerl. Banchetto musicale (tác phẩm của Johann Schein, được sáng tác vào năm 1617) cũng là một cột mốc trong lịch sử của tổ khúc bởi tính thống nhất các vũ khúc của nó.
Thời kỳ âm nhạc Baroque
Tóm tắt chung
Ở thời kỳ này, tổ khúc có một định nghĩa, đó là: Là một thể loại gồm một số chương, biết tất cả hay một vài trong chúng có mang hình thức và tính chất của vũ khúc. Và tên gọi cho nhóm vũ khúc thì cũng chẳng ít: Partita, overture, ordue và Sonata da camera.
Sự phát triển và bên lề
Sự phát triển của tổ khúc thời kỳ này có thể được chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn A-C-S
Đây là những chữ cái đầu của allemande, courante và sarabande. Đóng góp vào giai đoạn này đó là các nghệ sĩ đàn lute ở Paris và các bậc thầy về vũ khúc ở cung đình của Pháp. Tác phẩm tiêu biểu đó là Tablature de mandore de la composition du Sieur Chancy (1629)
Giai đoạn thêm cả gigue (G)
Khi gigue được chấp nhận một cách thưa thớt, không chỉ quy mô của nhóm vũ khúc trên mà cả vị trí của các vũ khúc trong nhóm cũng thay đổi. Trường hợp của Johann Jakob Froberger là tiêu biểu. Trong các tác phẩm của Froberger, có khi lại là A-C-S-G (trường hợp này hiếm hơn), có khi lại là A-G-C-S, trong đó cấu trúc A-G-C-S được phát triển để trở thành đặc trưng của các nhà soạn nhạc Đức thời kỳ này. Gigue không gây chú ý đối với người Anh. Còn ở Pháp, trong triều đại của Louis XIV, A-C-S-G được đi kèm với các vũ khúc khác. Cũng phải nói thêm rằng người Pháp có những sáng tác riêng của mình cho thể loại tổ khúc. Bằng chứng là các tổ khúc dành cho harpsichord của những Louis Couperin, Jean-Henri d'Anglebert và các nhà soạn nhạc khúc gồm prelude không nhịp và các tác phẩm đã có từ trước được xếp với nhau. Hay trường hợp của Jean-Baptiste Lully sáng tác hẳn một overture đứng trước một tổ khúc nào đó, trở thành bộ overture-tổ khúc.
Thời kỳ của Johann Sebastian Bach và George Frideric Handel
Hai nhà soạn nhạc cuối thời kỳ âm nhạc Baroque này đã viết các tổ khúc của mình theo cấu trúc prelude, tức là A-C-S-X-G (với X là một hay nhiều vũ khúc (cặp vũ khúc) thêm vào). Tuy nhiên, có vẻ Bach quan tâm đến các thể loại này hơn. Các tác phẩm tiêu biểu của Bach đó là Tổ khúc Anh, Tổ khúc Pháp, ba bản partita cho violin, sáu bản tổ khúc cho cello và một số bản partita cho harpsichord. Điều đó không có nghĩa là Handel không có những tổ khúc xuất sắc như Nhạc nước và Âm nhạc cho lễ hội pháo hoa của Hoàng gia. Ở Đức cũng xin kể thêm trường hợp của Georg Philipp Telemann khi ông khẳng định sáng tác không ít hơn 200 tổ khúc.
Thời kỳ âm nhạc Cổ điển
Tổ khúc mất hẳn vị trí quan trọng của mình trong con mắt của các nhà soạn nhạc thời kỳ này. Các tổ khúc bị coi là các bài luyện tập cổ xưa và dĩ nhiên, cố tìm một bản tổ khúc nổi bật vào lúc này là điều gần như quá sức. Vất vả lắm ta mới tìm được trường hợp của Wolfgang Amadeus Mozart với bản Tổ khúc cung Đô trưởng, K. 399/385i.
Thời kỷ âm nhạc Lãng mạn
Tuy nhiên, khác với các vị tiền bối của mình, các nhà soạn nhạc Lãng mạn đã chú ý hơn đến thể loại này. Tuy nhiên, thay vì được sử dụng với định nghĩa tập hợp các vũ khúc với nhau, hai từ "tổ khúc" lại được sử dụng như tiêu đề của một bộ tuyển chọn dành cho dàn nhạc giao hưởng (Lully trước đó cũng có các tổ khúc dành cho dàn nhạc, nhưng định nghĩa của thời Lully khác hẳn) được rút ra từ một tác phẩm lớn, đặc biệt là từ ballet và opera, hay là một chuỗi các khúc nhạc kết nối với nhau một các lỏng lẻo theo một chương trình mang tính mô tả (Những hành tinh của Gustav Holst) hay mang tính ngoại lại hoặc dân tộc (trường hợp của Edvard Grieg, Pyotr Ilyich Tchaikovsky, Nikolay Rimsky-Korsakov và Jean Sibelius).
Thế kỷ XX
Đến thế kỷ này, tổ khúc lại đánh mất vị trí của mình khi tiếp bị coi là bài luyện tập cổ xưa. Tuy nhiên, các bản tổ khúc nổi bật lúc này nhiều hơn so với thời Cổ điển, điển hình là của Maurice Ravel, Claude Debussy, Paul Hindemith, Richard Strauss và Arnold Schönberg. Lúc này, sự độc lập của tổ khúc với vũ khúc được tiếp nối.
Các tổ khúc nổi tiếng
nhỏ|Khúc dạo đầu trong tổ khúc số 3 "Air on G String" của J.S. BACH.
Tổ khúc bốn mùa (the four seasons) của Antonio Vivaldi.
Giấc mộng đêm hè của Felix Mendelssohn sáng tác cho kịch của W. Shakespeare, là khúc mở đầu (ouveture) của một tổ khúc.
L'Arlésienne của Georges Bizet.
Tổ khúc Carmen do Ernest Guiraud biên soạn từ ôpêra Carmen.
Tổ khúc "Chiếc kẹp hạt dẻ" (Nutcracker) của Pyotr Ilyich Tchaikovsky.
Tổ khúc Hồ thiên nga (trích phần nhạc từ vở balê Hồ thiên nga) của Pyotr Ilyich Tchaikovsky.
Tổ khúc Peer Gynt của Edvard Grieg.
Các tổ khúc của J. S. Bach rất đa dạng, viết cho dàn nhạc giao hưởng, cho hòa tấu vĩ cầm với dàn nhạc, hoặc cho hòa tấu đàn dây, Partitas cho dương cầm.
Các tổ khúc Nhạc nước, Âm nhạc lễ hội pháo hoa Hoàng gia của G. F. Handel đã bao gồm cả khúc dạo đầu và tổ khúc.
Tổ khúc "Các hành tinh" của Gustav Holst là nhạc phẩm mô tả bằng âm nhạc các hành tinh của Hệ Mặt trời, lần lượt là: Hỏa Tinh, Kim Tinh, Thủy Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh và Hải Vương Tinh.
*Nhạc trong vở balê Chim lửa (Firebird) của I. F. Stravinsky là một tổ khúc trong thời hiện đại.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tổ khúc** là một thể loại nhạc hòa tấu không lời, gồm nhiều bản nhạc khác nhau nhưng cùng thể hiện một chủ đề nhất định, được biểu diễn một cách nối tiếp liên tục
nhỏ|Dmitri Shostakovich, tác giả của tổ khúc **Tổ khúc cho Dàn nhạc Đa dạng** (_Suite for Variety Orchestra)_ (tiếng Nga: _Cюита для эстрадного оркестра в восьми частях_) (sau năm 1956) là một tổ khúc tám
**Tổ khúc Pháp, BMW 812-817** là tập hợp 6 tổ khúc được nhà soạn nhạc người Đức Johann Sebastian Bach viết cho đàn clavier (harpsichord hoặc clavichord) trong các năm 1722 đến 1725. Các bản
**Tổ khúc Anh** là tập hợp 6 tổ khúc của nhà soạn nhạc người Đức Johann Sebastian Bach, được xuất bản sau khi ông qua đời năm 1750. Tên gọi của những tổ khúc này
**Tổ khúc Karelia, Op.11** (tiếng Việt: **Tổ khúc Karelina**) là tổ khúc cho dàn nhạc giao hưởng của nhà soạn nhạc người Phần Lan Jean Sibelius. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1893.
**Tổ khúc cung Đô trưởng, K. 399/385i** là bản tổ khúc duy nhất của nhà soạn nhạc thiên tài người Áo Wolfgang Amadeus Mozart. Đây là tổ khúc dành cho piano. Tác phẩm này được
nhỏ|Bản viết tay của Bach cho phần bè sáo độc tấu của tổ khúc dàn nhạc số 2 (BWV 1067) **Tổ khúc cho dàn nhạc số 2 cung Si thứ,** BWV 1067 là một trong bốn
nhỏ|E.Guiraud – soạn giả tổ khúc Carmen (ảnh của G. Camus, 1890). **Tổ khúc Carmen** là một tác phẩm âm nhạc cho dàn nhạc biểu diễn, thuộc thể loại tổ khúc, gồm nhiều bản nhạc
Sáu **Tổ khúc cho Cello**, BWV 1007–1012, là tuyển tập những tổ khúc cho đàn Cello không có nhạc cụ đệm của Johann Sebastian Bach. Đây là một bộ sáng tác độc tấu được biểu
nhỏ|phải|Huấn luyện viên đang chỉ đạo chiến thuật **Khúc côn cầu trên cỏ** hay **hockey trên cỏ** là một môn thể thao đồng đội thuộc họ khúc côn cầu. Nguồn gốc đầu tiên của môn
**Khúc Thừa Mỹ** (chữ Hán: 曲承美; trị vì: 917 – 923 hoặc 917 – 930) là người làng Cúc Bồ đất Hồng Châu (nay là xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương), con
**Khúc Hạo** (chữ Hán: 曲顥; 860 - 917) hoặc **Khúc Thừa Hạo**, được suy tôn là **Khúc Trung Chủ** (曲中主), là con của Khúc Thừa Dụ. Quê của cha con Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo
nhỏ|phải|Một trận khúc côn cầu ở Mỹ **Khúc côn cầu** hay **hockey** là một thể loại các môn thể thao, trong đó hai đội thi đấu với nhau bằng cách cố gắng điều khiển một
**Tình khúc 1954 – 1975** hay **tình ca 1954 – 1975** là một dòng nhạc thuộc tân nhạc Việt Nam. Đây là khái niệm không thật chính xác để chỉ một số các ca khúc
"**No Time to Die**" là một bài hát của nữ ca sĩ người Mỹ Billie Eilish. Đây là ca khúc chủ đề cho bộ phim điện ảnh cùng tên đề tài _James Bond_ và được
**Giải Quả cầu vàng cho ca khúc trong phim hay nhất** là một trong các giải Quả cầu vàng được Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood trao hàng năm cho ca khúc trong
**_Années de pèlerinage_** (nghĩa: **Những năm hành hương**) (S.160, S.161, S.163) là tổ khúc piano gồm ba phần sáng tác bởi Franz Liszt. Phần lớn tổ khúc sử dụng những nguyên liệu từ tác phẩm
thumb|Khúc xạ kế cầm tay **Khúc xạ kế** là một thiết bị đo chiết suất (đo khúc xạ). Chiết suất của một môi trường được tính nhờ định luật Snell trong khi chỉ số khúc
**Liên đoàn Khúc côn cầu trên băng Quốc tế** (tiếng Anh: **_International Ice Hockey Federation_**, viết tắt: **IIHF**; ; ) là cơ quan quản lý toàn cầu về khúc côn cầu trên băng và khúc
**Tô Hữu Bằng** (sinh ngày 11 tháng 9 năm 1973) là nam diễn viên, ca sĩ Đài Loan, thành viên của ban nhạc Tiểu Hổ Đội từ năm 15 tuổi cùng với Ngô Kỳ Long,
**Michael Learns to Rock** (thường được viết tắt là **MLTR**) là một ban nhạc nổi tiếng Đan Mạch với các ca khúc bằng tiếng Anh. Ban nhạc này thành lập năm 1988 và đã bán
"**Joy to the World**" là một trong những ca khúc giáng sinh nổi tiếng và được yêu thích nhất. Nội dung của bài hát là thông điệp chuyển tải niềm vui và tình yêu thế
**Hành khúc** là một thể loại âm nhạc đặc trưng của quân đội. Các tác phẩm thuộc thể loại này thường được biểu diễn trong các buổi diễu hành của quân đội.Thầy cô giáo ##
**Giải đua ô tô Công thức 1 Áo** () là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào các năm 1964, 1970–1987, 1997–2003 và kể từ khi quay trở lại lịch đua Công
**Khúc côn cầu**, hay cụ thể hơn, khúc côn cầu trên cỏ, được đưa vào chương trình **Thế vận hội** với tư cách là một cuộc thi đấu của nam giới tại đại hội năm
**Khúc Lan** là nữ nhạc sĩ người Việt nổi tiếng trong làng nhạc hải ngoại, được biết đến với nhiều ca khúc nhạc Pháp, nhạc Hoa và cả nhạc Nhật được viết lời Việt. Trong
**Chi Khúc khắc** (danh pháp khoa học: **_Smilax_**) là một chi của khoảng 200-315 loài dây leo hay cây thân thảo trong thực vật có hoa, nhiều loài trong số đó là các cây thân
**Giải đua xe Công thức 1 Việt Nam** () là một giải đua Công thức 1 theo dự kiến diễn ra vào tháng 4 năm 2020 tại trường đua đường phố Hà Nội. Giải đua
**_Peer Gynt**,_ Op. 23 là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà soạn nhạc người Na Uy Edvard Grieg. Tác phẩm này xuất phát từ vở kịch cùng tên của nhà viết kịch
**Giải đua ô tô Công thức 1 Azerbaijan 2024** (tên chính thức là **Formula 1 Qatar Airways Azerbaijan Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 15 tháng
thumb|Bộ môn khúc côn cầu trên cỏ được in trên con tem thư nhân dịp sự kiện Đại hội Thể thao châu Á 1962 tại Indonesia Nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ
**Tô Tắc** (chữ Hán: 苏则; ?-223) là quan nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời trẻ Tô Tắc trước đó mang họ Trữ, có tên tự là **Văn Sư**
**Họ Khúc** là dòng họ nắm quyền cai trị Việt Nam đầu thế kỷ X, mở đầu Thời kỳ tự chủ Việt Nam sau hơn 1000 năm Bắc thuộc. Họ Khúc truyền nối làm chức
Nội dung thi đấu môn **Khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2019** ở Lima, Peru được tổ chức từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8.
Nội dung thi đấu **Khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao châu Á 2010** được tổ chức tại Quảng Châu, Quảng Đông, Trung Quốc từ ngày 13 tháng 11 năm 2010 đối
**Khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao châu Á 2014** được tổ chức ở Incheon, Hàn Quốc từ ngày 20 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 2014. Đội vô địch
Nội dung thi đấu **khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao châu Á 2006** diễn ra từ ngày 2 đến 14 tháng 12 năm 2006 tại Sân khúc côn cầu Al-Rayyan. Tại
**Khúc côn cầu trên cỏ** tại Thế vận hội Mùa hè 2016 ở Rio de Janeiro diễn ra từ ngày 6 đến ngày 19 tháng 8 tại Trung tâm khúc côn cầu Olympic ở Deodoro.
Giải đấu khúc côn cầu trên cỏ nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2016 là lần thứ 10 môn khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ được tổ chức tại Thế vận hội
**Giải đua ô tô Công thức 1 Ý 2023** (tên chính thức là **_Formula 1 Pirelli Gran Premio d'Italia 2023_**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 3 tháng 9
**_Carmen_** là vở opera Pháp của Georges Bizet, lời tiếng Pháp các bài hát (aria) của Henri Meilhac và Ludovic Halévy, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của Prosper Mérimée xuất bản lần đầu năm
**Khúc côn cầu trên cỏ** giải đấu nữ** tại **Đại hội Thể thao châu Á 2002''' được tổ chức tại Sân vận động khúc côn cầu Gangseo, Busan từ ngày 5 tháng 10 đến ngày
thumb|Trận đấu khúc côn cầu trên cỏ nữ giữa Argentina và Canada **Khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023** ở Santiago, Chile được tổ chức từ ngày 25
**Khúc côn cầu tại Thế vận hội Mùa đông 2006** được tổ chức tại Palasport Olimpico và Torino Esposizioni ở Torino, Ý. Cuộc đấu nam được tổ chức từ ngày 15 đến 26 tháng 2
**Giải BFCA cho ca khúc trong phim hay nhất** là một trong các giải của BFCA dành cho ca khúc trong phim, được bầu chọn là hay nhất. Giải này được lập từ năm 1998.
Các giải đấu **khúc côn cầu trên cỏ** tại **Thế vận hội Mùa hè 2024** ở Paris dự kiến diễn ra từ ngày 27 tháng 7 đến ngày 9 tháng 8 tại Sân vận động
**Khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015** được tổ chức tại Sân vận động Khúc côn cầu Sengkang, Singapore từ ngày 6 đến 13 tháng 6 năm 2015.
**Khúc côn cầu trên băng** hay **ice hockey** là một môn thể thao đồng đội chơi trên băng, trong đó người tham gia sử dụng cây gậy của mình để đánh bóng vào lưới đối
**Khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao châu Á 2018** ở Jakarta và Palembang được tổ chức tại Sân khúc côn cầu GBK, Jakarta, Indonesia từ ngày 19 tháng 8 đến ngày
Nội dung thi đấu **khúc côn cầu trên cỏ** tại **Đại hội Thể thao châu Á 2002** được tổ chức tại Busan, Hàn Quốc từ ngày 30 Tháng 9 đến ngày 12 tháng 10 năm