✨Clark Gable

Clark Gable

William Clark Gable (ngày 1 tháng 2 năm 1901 – ngày 16 tháng 11 năm 1960) là một nam diễn viên điện ảnh Hoa Kỳ, được biết đến nhiều qua vai Rhett Butler trong bộ phim năm 1939 về nội chiến Mỹ Cuốn theo chiều gió, đóng cặp cùng Vivien Leigh. Rhett đã mang đến cho ông đề cử Giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất; ông cũng giành giải Oscar cho phim It Happened One Night (1934) và được một đề cử cho vai diễn trong phim Mutiny on the Bounty (1935). Những vai diễn đáng nhớ tiếp theo là trong Run Silent, Run Deep và trong bộ phim cuối cùng The Misfits (1961), đóng cùng Marilyn Monroe và đây cũng là lần cuối cùng xuất hiện trên màn ảnh của cả hai người.

Trong sự nghiệp điện ảnh huy hoàng của mình, Gable thường đóng cặp cùng những nữ diễn viên nổi tiếng nhất của thời đại. Joan Crawford, người mà Gable rất thích làm việc cùng, đã đứng cạnh ông trong 8 bộ phim, Myrna Loy đóng cùng ông 7 lần, và ông cũng cùng diễn với Jean Harlow trong 6 bộ. Gable cũng đóng cặp cùng Lana Turner trong 3 phim, và với Norma Shearer 3 lần. Gable luôn ở trong top những ngôi sao danh tiếng nhất của thập niên 30.

Thời niên thiếu

Clark Gable sinh ra tại Cadiz, Ohio, con của William Henry "Bill" Gable, một nhà khoan giếng dầu and Adeline Hershelman, of German và Irish phá sản. Ông bị nhầm lẫn là nữ trong giấy chứng sinh. Tên khai sinh của ông là William Clark Gable, nhưng trong hộ khẩu, văn bằng và các giấy tờ liên quan thì lại mang một tên khác. "William" là để tưởng nhớ cha ông. "Clark" là tên trước khi lấy chồng của bà ngoại ông. Thời thơ ấu ông thường được gọi là "Clark"; vài người bạn gọi ông là "Clarkie", "Billy" hay "Gabe".

Khi ông được sáu tháng tuổi, mẹ ông rửa tội theo nghi thức Công giáo cho ông. Bà mất khi ông mới 10 tháng tuổi bởi bệnh u não. Sau cái chết của bà, nhà nội Gable không chấp nhận nuôi ông như một tín đồ Công giáo và đồng ý cho ông có thời gian sống với nhà ngoại theo Công giáo, ông bác Charles Hershelman, tại trang trại của ông ở Vernon, Pennsylvania.

Tháng 4 năm 1903, cha Gable father tái giá với Jennie Dunlap, đến từ một thị trấn nhỏ lân cận Hopedale. Gable là một đứa trẻ cao lớn nhưng hay mắc cỡ và nói âm khó nghe. Sau khi cha cậu tậu đất và xây nhà, một gia đình mới được tạo dựng ở nơi này. Jennie hay biểu diễn dương cầm và dạy học cho cậu con ghẻ tại nhà, và cậu bé có thể chơi được nhạc khí đồng. Bà cũng để Gable ăn mặc đẹp và chải chuốt khiến cậu nổi trội hẳn so với bạn bè đồng trang lứa. Gable có thiên hướng trong cơ khí và thích nghiên cứu sửa chữa ô tô cùng cha cậu. Mặc dù người cha luôn muốn cậu có những thú vui nam tính như săn bắn và thể thao nhưng Gable lại thích thơ ca. Cậu có thể ngâm Shakespeare, đặc biệt là những bài sonnet. Will Gable đồng ý mua một bộ 72 tập những tác phẩm kinh điển thế giới để nâng cao học vấn của con trai, nhưng lại không muốn thấy cậu sử dụng nó. Năm 1917, khi Gable vào trung học, cha cậu phá sản. Will quyết định chuyển qua làm nông trại và gia đình chuyển tới Ravenna, giáp Akron. Gable không thích nghi được với vùng đất mới. Mặc dù cha cậu muốn cậu kế nghiệp ở trang trại nhưng Gable vẫn đến làm việc tại nhà máy sản xuất cà vạt B. F. Goodrich.

Năm 17 tuổi, Gable nuôi giấc mộng diễn xuất sau khi xem vở kịch The Bird of Paradise, nhưng ông không thể thực sự khởi nghiệp cho đến mãi năm 21 tuổi và nhận quyền thừa kế. Lúc đó, mẹ kế Jennie qua đời và cha ông bỏ tới Tulsa để quay lại kinh doanh dầu. Gable tìm việc trong một nhà hát hạng hai, sau đó lại đến Portland, Oregon và xin một chân bán hàng trong hiệu tạp hoá. Tại đây, ông gặp nữ diễn viên Laura Hope Crews, bà đã khuyến khích ông trở lại với sân khấu và xin vào một rạp hát khác. Thầy dạy của ông là giám đốc một rạp hát ở Portland, Oregon, bà Josephine Dillon (nhiều hơn ông 17 tuổi). Dillon chi tiền cho ông sửa răng và làm tóc. Bà cũng hướng dẫn ông hoàn chỉnh hình thể và dáng điệu và chú ý dạy ông luyện giọng cao, để chất giọng có âm vực hay hơn. Khi giọng nói được cải thiện, sự biểu lộ nét mặt của ông cũng tự nhiên và giàu sức thuyết phục hơn thấy rõ. Sau một thời gian dài khổ luyện, Dillon bắt đầu đưa Gable đến điện ảnh.

Sự nghiệp

Sân khấu và phim câm

Năm 1924, với sự tài trợ của Dillon, cả hai đặt chân đến Hollywood, Dillon trở thành quản lý của Gable và hai người kết hôn. Ông đặt nghệ danh là Clark Gable. và đóng vai phụ trong một số phim câm như The Plastic Age (1925), nữ chính Clara Bow, và Forbidden Paradise, cũng với loạt phim hài The Pacemakers. Ông cũng xuất hiện trong những vai quần chúng trong một số phim ngắn. Tuy nhiên, Gable không được diễn bất kì một vai chính nào nên ông quay trở lại với sân khấu, trở thành bạn thâm giao với Lionel Barrymore, mặc dù ông này đã chê bai diễn xuất không chuyên của Gable nhưng vẫn khuyễn khích ông theo nghiệp sân khấu. Suốt mùa diễn 1927-28, Gable diễn trong đoàn Laskin Brothers Stock ở Houston và được phân khá nhiều vai, trở thành ngôi sao kịch nghệ trong vùng. Sau đó Gable tới New York và Dillon tìm việc cho ông tại Broadway. Ông tạo được ấn tượng với Machinal, Morning Telegraph nhận xét "Anh ấy trẻ, đầy sinh khí và nam tính mạnh mẽ". Ảnh hưởng của đại khủng hoảng kinh tế và sự ra đời của phim âm thanh khiến cho nhiều vở diễn trong mùa 1929-30 bị ngưng trệ, các vai diễn trở nên khó kiếm.

Thành công buổi đầu

Năm 1930, sau vai diễn ấn tượng Killer Mears, một kẻ liều mạng trong vở The Last Mile, Gable được ký hợp đồng với Metro–Goldwyn–Mayer. Vai diễn đầu tiên trong phim âm thanh của ông là một vai phản diện trong The Painted Desert (1931). Ông nhận được rất nhiều thư của người hâm mộ vì giọng nói cùng diễn xuất mạnh mẽ. Và nhà đài đã để ý tới ông.

Cùng năm đó, Gable và Josephine Dillon li dị. Ít lâu sau, ông cưới một phụ nữ giàu có và quyền lực ở Texas, bà Ria Franklin Prentiss Lucas Langham. Sau khi tới California, họ làm đám cưới lại năm 1931, do sự khác biệt về pháp luật giữa các bang.

"Tai anh ta quá lớn và trông như một con khỉ cắt đuôi", quản lý Darryl F. Zanuck của Warner Bros nhận xét về Clark Gable sau khi ông thử vai chính cho phim gangster Little Caesar (phim) (1931). Sau vài lần thất bại, Gable được chấp nhận bởi Irving Thalberg của MGM và móc nối được với Minna Wallis làm quản lý. Bà là một phụ nữ quen biết rộng, là chị gái của đạo diễn Hal Wallis và rất thân với Norma Shearer.

Gable đặt chân đến Hollywood đúng vào thời điểm MGM đang cần tìm kiếm nam diễn viên. Ông chủ yếu đóng những vai phụ và thường là vai phản diện. Giám đốc công chúng của MGM - Howard Strickland đã giúp Gable quảng bá hình ảnh. MGM cũng thường để ông cặp đôi bên cạnh những nữ minh tinh danh giá của hãng. Joan Crawford đã mời ông diễn cùng mình trong Dance, Fools, Dance (1931). Gable trở nên nổi tiếng và quen thuộc với công chúng qua những bộ phim như A Free Soul (1931), trong này ông diễn một tay gangster đã tát nhân vật của Norma Shearer (Gable không bao giờ diễn một vai phụ nào nữa sau cái tát này). The Hollywood Reporter viết "Một ngôi sao đã được sinh ra, và đó, theo như chúng ta ước đoán, sẽ làm lu mờ mọi ngôi sao khác... Chưa bao giờ chúng ta thấy khán giả kích động mãnh liệt bằng như khi Clark Gable bước ngang qua màn bạc". Ông tiếp tục với Susan Lenox (Her Fall and Rise) (1931) cùng Greta Garbo, và Possessed (1931) với Joan Crawford và dấy lên một loạt chuyện "phim giả, tình thật". Adela Rogers St. John cho rằng "chuyện tình này gần như đã đốt cháy Hollywood." Louis B. Mayer đe dọa cắt hợp đồng của cả hai và Gable chuyển hướng sang Marion Davies. Tuy nhiên, Gable và Garbo vô cùng ghét nhau. Bà nghĩ ông là một diễn viên trơ như củi còn ông thì coi bà là một bà cô hợm hĩnh.

Trở thành minh tinh

nhỏ|với [[Claudette Colbert trong It Happened One Night (1934)]] Gable là ứng cử viên nặng ký cho vai chính trong Tarzan nhưng bị mất vào tay Johnny Weissmuller vì không dẻo dai và bơi lội giỏi bằng. Gable đóng cặp tình nhân cùng Jean Harlow trong Red Dust (1932), điều này đẩy ông lên vị trí hàng đầu của MGM. Sau Hold Your Man (1933), MGM bắt đầu gây dựng hình ảnh uyên ương vàng Gable-Harlow, ghép đôi hai người trong nhiều phim như China Seas (1935) và Wife vs. Secretary (1936). Một sự phối hợp kinh điển, trên màn ảnh và ngoài màn ảnh, Gable và Jean Harlow đã có cùng nhau 6 bộ phim, tiêu biểu như Red Dust (1932) và Saratoga (1937). Harlow qua đời vì suy thận trong lúc làm phim Saratoga. Đã hoàn thành được 90%, bộ phim vẫn tiếp tục với ít nhiều vấn đề; Gable nói rằng ông cảm thấy như thể mình "ở trong vòng tay của hồn ma".

Gable không phải sự lựa chọn đầu tiên cho vai Peter Warne trong It Happened One Night. Robert Montgomery là ứng cử viên số 1, nhưng ông cảm thấy kịch bản quá đơn điệu. Bộ phim bắt đầu một cách căng thẳng,

Gable cũng nhận được một đề cử Oscar với vai Fletcher Christian trong Mutiny on the Bounty năm 1935. Năm tiếp theo, ông có một loạt phim thành công rực rỡ, đem lại cho Gable danh hiệu "Ông hoàng của Hollywood" năm 1938. Danh hiệu này được lần đầu sử dụng bởi Spencer Tracy, bắt nguồn từ khi Ed Sullivan đề xướng một cuộc bình chọn trên bài báo của mình và hơn hai mươi triệu người hâm mộ đã bầu Gable 'Ông hoàng' và Myrna Loy 'Nữ hoàng' của Hollywood. Tuy danh hiệu này giúp sự nghiêph ông thăng tiến rất nhiều nhưng Gable vẫn cảm thấy mệt mỏi vì nó, sau này ông nói "Cái danh hão 'Ông hoàng' thật nhảm nhí... Tôi chỉ là một gã cục cằn đến từ Ohio. Tôi xuất hiện đúng nơi và đúng lúc". Từ thập niên 30 cho đến đầu những năm 40, ông thường được xem như là ngôi sao danh tiếng nhất hành tinh.

Cuốn theo chiều gió

nhỏ|Vai Rhett Butler trong "Cuốn theo chiều gió" Năm 1939, nhờ Rhett Butler - hình tượng đã gắn liền với ông, Clark Gable nhận được một đề cử Oscar nam chính. Cuốn theo chiều gió đã đưa sự nghiệp của Gable lên đến đỉnh cao, ông cũng là một trong số ít những nam diễn viên đóng vai chính trong 3 bộ phim dành Oscar phim hay nhất.

Đời tư

Kết hôn với Carole Lombard

Năm 1939, Clark Gable kết hôn cùng Carole Lombard, người vợ thứ ba và có lẽ là người ông yêu thương nhất trong cuộc đời đa tình của mình. Lombard là một ngôi sao thành công rực rỡ và có thu nhập cao chót vót. Sắc đẹp rạng rỡ với mái tóc vàng óng ả cùng cá tính của bà đã thu hút Gable hơn bao giờ hết. Cặp uyên ương đã có những tháng ngày hạnh phúc nhất trong đời nhưng cũng không kéo dài lâu. Ngày 16 tháng 1 năm 1942, sau khi hoàn thành bộ phim thứ 57 và cũng là bộ phim cuối cùng của mình, To Be or Not to Be, Carole gặp tai nạn máy bay ở một ngọn núi gần Las Vegas, toàn bộ hành khách tử nạn, có cả mẹ của Carole và chuyên gia quảng cáo của MGM Otto Winkler (chứng nhân đám cưới của Gable và Lombard). nhỏ|trái|Carole Lombard Gable rơi vào tuyệt vọng trầm trọng trong nhiều tháng trời và say khướt suốt ngày. Sau đó ông đã cố vực dậy, dành hết tâm sức cho đóng phim. Ông cũng kết hôn thêm hai lần nữa nhưng theo lời đồng nghiệp nhận xét, trái tim ông dường như đã chôn theo Lompard.

Thế chiến II

Sau Thế chiến II

Con cái

Gable có một con gái ngoài giá thú, Judy Lewis,, kết quả của mối tình vụng trộm với nữ diễn viên Loretta Young từ khi bắt đầu quay bộ phim Tiếng gọi nơi hoang dã năm 1934. Khi bộ phim làm hậu kì, Young xin nghỉ phép dài hạn và di châu Âu để che giấu việc mình đã mang thai. Vài tháng sau, bà quay trở lại California và sinh con ở Venice. 19 tháng sau khi sinh, Loretta lại công khai nhận Judy làm con nuôi.

Theo Lewis, Gable đã từng đến nhà bà, nhưng không nhận bà là con. Trong khi cả Gable và Young đều không thừa nhận đứa con không cha này, sự thật này có vẻ lại như ai cũng biết trong cuốn hồi ký của Lewis Uncommon Knowledge, bà viết rằng bà vô cùng bàng hoàng khi biết được điều này qua những đứa trẻ khác ở trường. Loretta Young không bao giờ công nhận điều đó, điều mà bà nói là sẽ giống như thừa nhận một "tội lỗi có thể tha thứ". Tuy nhiên, bà cũng chấp nhận cho tác giả cuốn sách viết điều này với điều kiện là chỉ được xuất bản sau khi bà qua đời.

Ngày 20 tháng 3 năm 1961, Kay Gable sinh đứa con trai của Gable, John Clark Gable, 4 tháng sau cái chết của ông.

Cái chết

Gable qua đời tại Los Angeles, California vào ngày 16 tháng 11 năm 1960 do đột quỵ, mười ngày sau ca phẫu thuật tim. Có nhiều khả năng sức khỏe của Gable bị suy nhược đi nhiều khi diễn vai chính trong The Misfits, dẫn đến đột tử ngay sau khi bộ phim hoàn thành.

Trong một buổi phỏng vấn với Louella Parsons sau cái chết của Gable, Kay Gable đã nói "Không phải là sự tổn thương thể chất đã giết ông. Đó là tình trạng căng thẳng, chờ đợi, chờ đợi và chờ đợi không ngừng. Ông ấy phải chờ đợi tất cả mọi người. Ông nóng giận đến mức đi lại và làm bất cứ điều gì để luôn bận rộn." Monroe nói rằng cô và Kay trở nên thân nhau lúc làm phim và gọi Clark là "người đàn ông của chúng ta"

Robert Taylor ca ngợi Gable "là anh chàng vĩ đại, vĩ đại và chắc chắn là một trong những ngôi sao vĩ đại nhất mọi thời đại, nếu không phải là vĩ đại nhất. Tôi nghĩ tôi thực sự nghi ngại rằng liệu còn có thể ai nữa như Clark Gable. Anh ta là duy nhất."

Các phim tham gia

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**William Clark Gable** (ngày 1 tháng 2 năm 1901 – ngày 16 tháng 11 năm 1960) là một nam diễn viên điện ảnh Hoa Kỳ, được biết đến nhiều qua vai Rhett Butler trong bộ
**Clark** có thể đề cập đến: *Clark Gable *Abraham Clark *Alan Clark
**_Cuốn theo chiều gió_** (tiếng Anh: _Gone With the Wind_) là bộ phim Mỹ, thuộc thể loại phim chính kịch-lãng mạn-sử thi, được phỏng theo tiểu thuyết cùng tên của Margaret Mitchell, xuất bản năm
**_Mutiny on the Bounty_** (_Cuộc nổi dậy trên tàu Bounty_) là một phim do hãng MGM sản xuất năm 1935, do Frank Lloyd đạo diễn, với các ngôi sao Charles Laughton và Clark Gable, dựa
**Rhett Butler** là một nhân vật hư cấu, một trong những nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết _Cuốn theo chiều gió_ của tác giả Margaret Mitchell và bộ phim cùng tên được làm dựa
**Jean Harlow** (tên khai sinh là **Harlean Harlow Carpenter,** sinh ngày 3 tháng 3 năm 1911 – mất ngày 7 tháng 6 năm 1937) là một nữ diễn viên Mỹ và là một biểu tượng
**_It Happened One Night_** (tên tiếng Việt: _Chuyện xảy ra trong đêm_) là một bộ phim hài Mỹ năm 1934, đạo diễn Frank Capra. Bộ phim xoay quanh một phụ nữ nổi tiếng (Claudette Colbert)
**Siêu nhân** là một siêu anh hùng xuất hiện trong các truyện tranh Mỹ do DC Comics phát hành. Nhân vật được tạo ra bởi nhà văn Jerry Siegel và họa sĩ Joe Shuster, và
**Marilyn Monroe** (; tên khai sinh **Norma Jeane Mortenson**; 1 tháng 6 năm 1926 – 4 tháng 8 năm 1962) là một nữ diễn viên, người mẫu và ca sĩ người Mỹ. Nổi tiếng với hình
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
**Doris Day** (tên khai sinh **Doris Mary Ann Kappelhoff**; 3 tháng 4 năm 1922 – 13 tháng 5 năm 2019) là một nữ diễn viên, ca sĩ, và nhà hoạt động cho quyền động vật
nhỏ|[[Marilyn Monroe, Clark Gable, Rex Bell, Eli Wallach và Montgomery Clift trong _The Misfits_ (1961)]] **Rex Bell** (tên khai sinh là **George Francis Beldam** ; 16 tháng 10 năm 1903 – 4 tháng 7 năm
**Grace Patricia Kelly** (12 tháng 11 năm 1929 – 14 tháng 9 năm 1982), hay **Thân vương phi Grace**, là một nữ diễn viên người Mỹ, sau này bà trở thành Thân vương phi xứ
nhỏ|Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất **Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên điện ảnh xuất sắc nhất – ca nhạc hoặc hài**
**Susan Hayward** (30.6.1917 – 14.3.1975) là nữ diễn viên người Mỹ, đã đoạt Giải Oscar cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất năm 1958. Sau khi làm người mẫu thời trang ở New York,
**Trần Quang** (sinh năm 1942) là nam diễn viên điện ảnh Việt Nam nổi tiếng từ trước năm 1975. ## Thuở nhỏ Trần Quang có tên đầy đủ là Trần Trọng Quang sinh ngày 12
nhỏ| Áp phích phim cho _[[Hawai Mare oki kaisen|Hawai Mare oki kaisen của_ Kajiro Yamamoto, (ハ ワ イ ・ マ レ ー 沖 海 戦, _The War at Sea from Hawaii to Malaya_ ), Toho
**Loretta Young** (6 tháng 1 năm 1913 – 12 tháng 8 năm 2000) là một nữ diễn viên người Mỹ đã từng đoạt giải Oscar, ba lần dành giải Emmy và hai giải Quả cầu
**H. Huntsman & Sons** (cũng được biết đến là _Huntsman của Savile Row_) là một nhà thời trang và nhà may cao cấp sang trọng ở số 11, phố Savile Row của Luân Đôn. Công
**_Mank_** là phim điện ảnh chính kịch tiểu sử đen trắng của Mỹ năm 2020 về nhà biên kịch Herman J. Mankiewicz và quá trình ông phát triển kịch bản của tác phẩm _Citizen Kane_
Ngày **1 tháng 2** là ngày thứ 32 trong lịch Gregory. Còn 333 ngày trong năm (334 ngày trong năm nhuận). ## Sự kiện *772 – Giáo hoàng Ađrianô I tựu nhiệm. *1327 – Edward
**Giải thưởng Viện Hàn lâm** (tiếng Anh: **Academy Awards**), thường được biết đến với tên **giải Oscar** (tiếng Anh: **Oscars**) là giải thưởng điện ảnh hằng năm của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ
**_Cuốn theo chiều gió_** (Nguyên văn: **_Gone with the wind_**), xuất bản lần đầu năm 1936, là một cuốn tiểu thuyết tình cảm của Margaret Mitchell, người đã giành giải Pulitzer với tác phẩm này
**Mervyn LeRoy** (15 tháng 10 năm 1900 - 13 tháng 9 năm 1987) là một đạo diễn phim, nhà sản xuất phim và đôi khi là một diễn viên người Mỹ, đã từng đoạt tượng
**Vivien Leigh, Nam tước phu nhân Olivier** (sinh ngày 5 tháng 11 năm 1913 - mất ngày 8 tháng 7 năm 1967), là một diễn viên điện ảnh người Anh. Bà đã giành được 2
**Scarlett O'Hara** (tên khai sinh: **Katie Scarlett O'Hara, **sau khi lấy chồng đổi thành: **Katie Scarlett O'Hara Hamilton Kennedy Butler**) là nhân vật hư cấu trong cuốn tiểu thuyết _Cuốn theo chiều gió _ năm
phải **Điện ảnh Hoa Kỳ** ra đời ngay từ cuối thế kỷ 19 và từ đó đã nhanh chóng trở thành một trong những nền điện ảnh hàng đầu thế giới cả về số lượng
[[Auguste và Louis Lumière, "cha đẻ" của nền điện ảnh]] **Lịch sử điện ảnh** là quá trình ra đời và phát triển của điện ảnh từ cuối thế kỉ 19 cho đến nay. Sau hơn
**USS _Saratoga_ (CV-3)** là chiếc tàu chiến thứ năm trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ được mang tên **Saratoga**, tên đặt theo trận chiến Saratoga quan trọng trong cuộc Chiến tranh giành độc lập
**Steven Allan Spielberg** (; sinh ngày 18 tháng 12 năm 1946) là một nam nhà làm phim người Mỹ gốc Do Thái. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình trong kỷ nguyên New Hollywood và
**_"Frankly, my dear, I don't give a damn."_** (tạm dịch là: _"Thật lòng mà nói, em yêu ạ, anh cóc quan tâm."_) là một câu thoại trong bộ phim _Cuốn theo chiều gió_. Câu nói
**New Hollywood** (Hollywood mới) hay **American New Wave** (Làn sóng mới Mỹ) là một giai đoạn trong lịch sử điện ảnh Hoa Kỳ từ giữa thập niên 1960 đến đầu thập niên 1980 khi một
, hay còn được biết đến ở Việt Nam với tên gọi cũ là **_Ninja loạn thị_**, là loạt manga về ninja do thực hiện từ năm 1986. Truyện được đăng lần đầu tiên trên
**Nghĩa trang Forest Lawn** (tiếng Anh: Forest Lawn Memorial Park, Công viên tưởng niệm Forest Lawn) là một nghĩa trang tư nhân ở Glendale, quận Los Angeles, Hoa Kỳ. Đây là một trong số các
**Thẩm Hoàng Tín** (1909–1991) là một dược sĩ và chính khách Việt Nam. Ông từng giữ chức Thị trưởng Hà Nội từ tháng 2 năm 1950 đến tháng 8 năm 1952 dưới chính thể Quốc
**Mẹ bề trên Dolores Hart** sinh ngày 20 tháng 10 năm 1938 (lúc 10 giờ 30) là một nữ tu sĩ Công giáo người Mỹ và là cựu nữ diễn viên điện ảnh. Bà đã
[[Marilyn Monroe là "Biểu tượng sex vĩ đại nhất mọi thời đại" cho tới thập niên 2000, với hình tượng "_Chiếc váy dài bay_" rất đỗi phổ biến trong văn hóa đại chúng.]] [[Madonna (ca
**Helen Hayes Brown** (10.10.1900 – 17.3.1993) là nữ diễn viên người Mỹ có sự nghiệp kéo dài tới gần 80 năm. Bà từng được mệnh danh là "Đệ nhất phu nhân của Kịch nghệ Hoa
**Raj Kapoor** (14 tháng 12 năm 1924 – 2 tháng 6 năm 1988) là một diễn viên điện ảnh, nhà sản xuất và đạo diễn điện ảnh Ấn Độ. Sinh ra tại Kapoor Haveli ở
**_Mr. Baseball_** là một bộ phim hài thể thao của Mỹ năm 1992 đạo diễn bởi Fred Schepisi, với sự tham gia của các diễn viên Tom Selleck, Takakura Ken, Dennis Haysbert và Takanashi Aya.
**Kiehl's** là một thương hiệu mỹ phẩm Hoa Kỳ chuyên kinh doanh sản phẩm dưỡng da, tóc và dưỡng thể cao cấp. Khởi đầu từ một hiệu thuốc đơn lẻ ở Manhattan tại Đại lộ
nhỏ|Phụ nữ đang cò kè mặc cả trong _Sách phác thảo Ailen_, năm 1845 Thuật ngữ **người bán thách** hay **người bán ngã giá** (tiếng Anh: _huckster_) mô tả một người bán một cái gì
nhỏ|phải **Ngựa Saddle** hay **ngựa yên cương** là một giống ngựa có nguồn gốc từ Mỹ, chúng được pha giống giữa loại Ngựa Thuần chủng và Ngựa Morgan. Đây là loại người mà người ta
**Giải Grammy lần thứ 52** diễn ra ngày 31 tháng 1 năm 2010 tại Trung tâm Staples ở Los Angeles, California, Mỹ. Chỉ 10 trong số 109 hạng mục của giải được phát sóng trên